Jean-Paul Sartre: Cuộc
Đời và Sự Nghiệp
Kỷ Niệm 30 Năm ngày Sartre qua đời
(21/06/1905 – 15/04/1980)
Bên cạnh một số tài
liệu khác, bài viết nầy chủ yếu tham chiếu
Sophie Bilemdjian trong
Premières leçons sur L'existentialisme est un humanisme de
Jean-Paul Sartre
Lương Tấn Lực
Licence d’Enseignement en Littérature Française - Université de Saïgon
Licence d’Enseignement en Philosophie Occidentale - Université de Saïgon
“La réalité humaine est tension perpétuelle,
rapport dialectique jamais résolu entre deux pôles:
entre facticité et
transcendance, entre un ensemble de
conditions données de fait et le dépassement
de ces conditions,
ente l’être toujours dejà-là
et l’être par-delà ce déjà-là.” Jean-Paul Sartre
Có thể nói Jean-Paul Sartre
là triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ
hai mươi. Danh tiếng nầy,
nếu không nói là ngưởng mộ, trên toàn thế giới,
đến từ sự truy t́m không mệt mỏi của ông
trong suy tư triết học, sáng tác văn học và những
dấn thân chính trị tích cực trong hậu bán cuộc
đời của ông. Ông
thường được xem là cha đẻ của triết
học hiện sinh (Existentialisme), một triết thuyết
từng tác động trên đời sống trí thức của
thập niên trực tiếp theo sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Một trong số
bao nhiêu mỉa mai lớn nhất trong đời Sartre là ông
đă vang danh lừng lẩy
khi đọc bài diển văn gây xôn xao dư luận “L’Existentialisme et L’Hunamisme”,
trước một đám thính giả Paris đầy nhiệt
t́nh vào ngày 28 tháng 10, 1945. Mặc
dù được xem gần như là bản tuyên ngôn của
phong trào hiện sinh, ấn phẩm của bài thuyết tŕnh
nầy lại là tài liệu in ấn duy nhất mà Sartre công
khai hối tiếc đả cho in ra. Tuy vậy, nó tiếp tục là tài
liệu nhập môn chủ yếu cho triết lư của ông
đối với mọi người. Một trong những lư do giải
thích sự thành công của bài diển văn và sự bất
an của tác giả chính là v́ đặc điểm sáng sủa
minh bạch trong cách thức tŕnh bày những chủ đề
chủ yếu của tư tưởng hiện sinh đồng
thời lại để lộ ư hướng của Sartre
muốn nới rộng ứng dụng xă hội của nó
nhằm đối đáp với những người phê b́nh
Cộng Sản và Công Giáo.
Cùng với Simone de
Beauvoir, Sartre thách thức những giả đoán và ước
vọng xă hội cũng như văn hóa của những tiền
bối của họ, những
người mà họ coi là trưởng giả (bourgeois), cả
trong nếp sống và tư tưởng. Sự mâu thuẩn giửa bảo
thủ áp bức, hủy hoại tinh thần và một lối
sống chân thực đă trở thành chủ đề hàng
đầu trong những tác phẩm đầu tiên của
Sartre, một chủ đề hiện thân trong tác phẩm triết
học chính của ông, “L’Être et
Le Néant” (1943).
Sơ Lượt Tiểu Sử
Jean-Paul Sartre sinh quán tại
Paris ngày 21/6/1905; cha là Jean-Baptiste Sartre, một sỹ quan Hải
Quân Pháp; và mẹ là Anne-Marie Schweitzer. Mẹ ông người gốc
Alsace và là người chị họ của Albert Schweitzer,
người nhận giải Nobel về triết học. Trong
thời thiếu niên vào những năm 1920, Sartre bị lôi
cuốn vào triết học khi đọc tác phẩm “Essai sur les
données immédiates de la conscience” của
Henri Bergson. Ông đậu bằng
tiến sỷ triết học tại trường École
Normale, Paris, một trường cao đẳng sư phạm
từng đào tạo nhiều triết gia và trí thức lỗi
lạc của Pháp. Trên nhiều
phương diện, Sartre chịu ảnh hưởng triết
học Tây Phương, tiếp nhận tư tưởng
của Kant, Hegel, Kierkergaard, Husserl, Heidegger v.v. Sartre bị động viên và phục
vụ trong Quân Đội Pháp
từ 1929 đến 1931 và sau nầy ông cho rằng
trong năm 1959 mọi người Pháp đều có trách nhiệm
về những tội ác tập thể trong cuộc Chiến
Tranh Giành Độc Lập của Algérie.
Vốn bị hỏng một
mắt khi ra đời, Sartre trở nên gần như mù hẵn
trong những năm cuối đời. Tuy nhiên, ông tiếp tục làm việc
qua trợ giúp của một máy thu âm.
Phát Triển Triết Học
Sartre đă từng nhận
giáo dục triết học cỗ truyền tại các
trường tiếng tăm tại Paris, những nơi
đă giúp ông tiếp xúc với lịch sử triết học
Tây Phương thiên hướng về Descartes và tân thuyết
của Kant (Néo-Kantisme), không kể ảnh hưởng nặng
nề của học thuyết Bergson. Sau đó Sartre kế nhiệm
người bạn học cũ của ḿnh là Raymond Aron tại
Học Viện Institut Français tại
Berlin, nơi ông đọc các tác phẩm của những
triết gia hiện tượng luận hàng đầu thời
đó như Husserl, Heidegger, và Scheler. Ông ca ngợi sự khẳng định
của Husserl về nguyên tắc ư hướng, một nguyên
tắc dường như giúp triết gia thoát khỏi tri
thức luận nội suy/ngoại suy thừa hưởng
từ Descartes trong khi vẫn duy tŕ được nguyên tắc
trực tri và và xác quyết mà Descartes đánh giá rất
cao. Không ai rơ ông đă đọc
những ǵ vào thời đó và đọc đến đâu,
nhưng ông ta chính thức khảo luận về nhà siêu h́nh
học người Đức uy thế nầy khi trở
về Pháp và nhất là trong tác phẩm chính, “L’être et Le Néant”. Ông khai thác phiên bản của
Husserl về ư hướng bằng cách nhấn mạnh rằng
thực thể con người là “trong thế giới” chủ
yếu thông qua những ưu tư thực tế chứ
không phải những liên hệ siêu h́nh của nó. Điều nầy khiến triết
học ban đầu của cả Sartre và Heidegger mang màu sắc
“thực dụng”, một đặc tính mà Sartre sẽ không
bao giờ từ bỏ. Người ta cũng ghi nhận rằng
nhiều quan niệm của Heidegger trong các tác phẩm hiện
sinh của Sartre cũng có trong những tác phẩm của
Bergson. Sartre từng cho biết
chính tác phẩm của Bergson, “Les
Donneés Immédiates de la Conscience” là nguồn cảm hứng
khiến ông đi vào triết học. Nhưng điều rơ ràng là Sartre
dốc phần lớn chủ tâm triết học ban đầu
của ông vào việc đánh đổ thuyết Bergson lúc bấy
giờ đang có ảnh hưởng lớn, và rơ ràng là tên
tuổi của Bergson suy giảm
khi tên tuổi của Heidegger gia tăng trong các tác phẩm
của Sartre viết vào những năm cao trào của thuyết
hiện sinh. Sartre dường như có đọc Max
Scheler, một triết gia duy đạo đức theo xu
hướng hiện tượng luận, và người đă
đưa ra khái niệm về trực quan của các
trường hợp điển h́nh được phản
ảnh trong tham chiếu của Sartre về “h́nh ảnh” của
biểu mẫu định đoạt cho mỗi người,
một khái niệm hướng dẩn và được thành
h́nh qua những lựa chọn đạo đức của
từng người. Nhưng
với luận cứ trung thành nhất với lư thuyết
Husserl, Sheler cho rằng những h́nh ảnh giá trị như
thế là do “khám phá” mà có trong khi Sartre lại cho rằng chúng
là do sáng tạo mà có.
“L’image, loin d’être
cette chose inconsistante à laquelle la réduit la tradition métaphysique en en
faisant une forme dégradée de la perception, est, là encore, un acte autonome
et original de la conscience, une certaine visée particulière de l’objet comme
absent, irréel.”
Mặc dù Sartre không phải
là đọc giả nghiêm chỉnh của Hegel hay Marx cho
đến sau chiến tranh, tương tự như nhiều
người khác cùng thế hệ với ông, ông chịu ảnh
hưởng của lối diển giải tiền hiện
sinh và Marxist của Kojève về Hegel, dù Sartre không hề dự
những buổi thuyết tŕnh nổi tiếng của Kojève
vào những năm 1930 như Lucan và Merleau-Ponty đă làm. Nghiên cứu trực tiếp hơn
của Sartre về triết gia đầy tầm vóc người
Đức nầy phát xuất từ bản dịch và b́nh
luận của Jean Hippolite liên quan đến tác phẩm của
Hegel, “Phénoménologie de L’Esprit”. Sự
hiện diện của Hegel và Marx trở nên ngôi vị hàng
đầu trong tác phẩm triết học chính được
viết sau đó, “Critique de La
Raison Dialectique” và trong bài tiểu luận, “Question de la Méthode”, dùng làm nhập
đề cho tác phẩm nầy.
Dilthy từng mơ ước hoàn thành hệ phê b́nh của
Kant với phần thứ tư, nghĩa là, phê b́nh về lư
trí lịch sử (critique de la raison historique). Sartre theo đuổi dự án nầy
bằng cách phối hợp một h́nh thức biện chứng
pháp của Marx với một “phân tích tâm lư - psychanalyse” theo
lối hiện sinh có tác dụng liên kết trách nhiệm cá
nhân vào những liên hệ giai cấp, từ đó đưa
thêm một chiều hiện sinh đúng nghĩa về trách
nhiện đạo đức vào chủ đề chính của
Marx về thuyết nhân quả tự nhiên và tập thể
- điều mà Raymond Aron sau nầy phê b́nh như là một
kết hợp không thể thực hiện được
giửa Kierkegaard và Marx. Nếu
phân tích đến cùng th́ Kierkegaard vẫn chiếm ưu thế;
thuyết Marxist của Sartre vẫn đóng vai phụ trong
thuyết hiện sinh của ông chứ không phải vai chính. Điều nầy trở nên rơ tàng
trong giai đoạn cuối của sự nghiệp của
ông.
Siêu H́nh Học
Cũng như Husserl và
Heidegger, Sartre phân biệt “ontologie”
và “métaphysique” và thích ontologie hơn. Trong trường hợp của ông,
ontologie chủ yếu mang tính
cách mô tả và phân loại, trong khi métaphysique chủ yếu giải thích theo nhân quả,
cung ứng những luận cứ liên quan đến nguồn
gốc và cứu cánh tối hậu của con người
và toàn thể vũ trụ. Tuy
nhiên, khác với Heidegger, Sartre không cố đả phá và xem
métaphysique như một bộ
môn hoang đường. Ông chĩ
ghi nhận theo lối của Kant rằng métaphysique nêu lên những câu hỏi mà chúng ta không thể
trả lời được.
Mặt khác, ông phụ đề cuốn “L’Être et Le Néant” là một “Ontologie Phénomélogique – Siêu h́nh hiện
tượng luận”. Phương
pháp mô tả siêu h́nh học nầy đi từ trừu
tượng nhất đến cụ thể cao độ. Nó bắt đầu bằng cách
phân tách hai thể loại hiện hữu riêng biệt và bất
khả giản lượt: tại ngả (en-soi) và vị ngả (pour-soi),
đại để là vô thức và ư thức, đi kèm với
thể loại thứ ba, tức vị tha (pour autrui), ở phần sau của cuốn sách, và
kết luận bằng một tóm lượt ứng dụng
của “phân tích tâm lư hiện sinh (psychanalyse existentielle)” có
nhiệm vụ diển đạt những hành động
của chúng ta để khám phá dự phóng căn bản thống
nhất cuộc đời chúng ta.
Hiện hữu tại
ngả (Être-en-soi-même) và hiện hũu vị ngả (Être-pour-soi-même)
có những đặc tính tương khắc và tuy thế
chúng ta, thực thể nhân loại, là những đơn vị
kết hợp cả hai; đó chính là cội rể siêu h́nh
của bản chất bất
nhất của chúng ta (ambiguité).
Hiện hữu tại ngả là vững chải
(solide), tự định danh (self-identique), bị động
và bất động (passif et inerte). Nó chĩ đơn thuần “hiện
hữu”. Hiện hữu vị
ngả th́ lưu động, không tự định danh, và
năng động. Nó là sự
phủ nhận hay triệt tiêu nội tại của hiện
hữu tại ngả mà nó bị ràng buộc. Nếu nh́n cụ thể hơn th́
thế song lập nầy được ví như “phàm tục
” và “siêu phàm”. Những thực
tại (données) trong hoàn cảnh của chúng ta như ngôn ngữ,
môi trường, những lựa chọn trước kia của
chúng ta và những cái rất “tôi” trong chức năng tại
ngả của chúng tạo nên thực tại của chúng
ta. Với tư thế là những
cá nhân có ư thức, chúng ta vượt lên thực tại nầy
ở trong những ǵ tạo nên “hoàn cảnh (situation)” của
chúng ta. Nói cách khác, chúng ta luôn
luôn là những hữu thể “trong hoàn cảnh (êtres-en-situation)”,
nhưng sự kết hợp chính xác giửa phàm và siêu phàm
vốn tạo nên hoàn cảnh hăy c̣n chưa xác định
được, ít nhất bao lâu chúng ta c̣n bị dấn thân
trong đó. Do đó, Sartre kết
luận rằng chúng ta luôn luôn “trội hơn” hoàn cảnh
và đây là nền tảng siêu h́nh cho tự do của chúng
ta. Chúng ta “bị bó buộc -
condamné” phải tự do, theo ngôn từ ngoa dụ của
Sartre.
“L’homme est condamné à
une liberté qu’il s’évertue en vain à fuir par mille stratégies.”
Người ta có thể
thấy tại sao Sartre thường được mô tả
như một triết gia nhị nguyên theo xu hướng
Descartes (Cartésien dualist), nhưng điều nầy không mấy
rơ ràng. Nếu có dấu hiệu
nhị nguyên nào hiện ra trong tư tưởng của ông
th́ chính đó là hiện tượng song lập tự phát/quán
tính (spontanéité/inertie) . Thuyết
nhị nguyên của ông không phải là một siêu h́nh học
nhị nguyên giống như vật thể tư duy và thực
thể nối dài (tinh thần và vật chật) của
Descartes. Chĩ có hiện hữu
tại ngả mới có thể được quan niệm
được như là thực thể hay “vật thể”
(substance ou chose). Hiện hữu
vị ngả là vô vật thể (non-chose), sự phủ nhận
nội tại của vật thể. Nguyên tắc định danh chĩ
áp dụng cho hiện hữu tại ngả. Hiện hữu vị ngả là một
ngoại lệ của nguyên tắc. Do đó, thời gian với tất
cả những nghịch lư của nó là chức năng của
hiện hữu vị ngả tiến hành triệt tiêu hay
tha hóa hiện hữu tại ngả. Quá khứ được liên hệ
với tương lai như hiện hữu tại ngả
với hiện hữu vị ngả và thực thể với
khả thể, c̣n hiện tại, tương tự như
“hoàn cảnh” nói chung là một hổn hợp mù mờ của
cả hai. Đây là phiên bản của Sartre liên quan đến
thuyết thời gian của Heidegger, thời gian chất
lượng được sống thực (temp vécu
qualitatif) của những ưu tư và hành động của
chúng ta, thời gian trôi đi hay ngừng lại nặng trỉu
trên tay chúng ta, thay v́ thời gian định lượng
theo kim đồng hồ mà chúng ta chia sẻ với thiên nhiên
vật lư.
Tâm Lư Học
Tài nghệ của Sartre
trong mô tả và phân tích tâm lư được mọi người
công nhận. Những ǵ làm cho ông
trở thành một tiểu thuyết gia va nhà viết kịch
thành công cũng góp phần cho tính sinh động và sức
mạnh trong những lư luận của ông về hiện
tượng luận. Những
nghiên cứu buổi đầu của ông về ư thức cảm
xúc và h́nh ảnh (conscience sensible et d’imagerie) trong những năm
cuối thập niên 1930 đă đẩy nguyên tắc ư
hướng của Husserl đi xa hơn ư muốn của
chính Sartre. Ví dụ, trong “La Psychologie de L’Imagination”, Sartre
cho rằng Husserl c̣n bị g̣ bó trong nguyên tắc nội tại
duy tâm (principle idéalist d’immanence) - đối tượng của
ư thức nằm trong chính ư thức - mặc dù mục tiêu công
khai của Husserl là đánh đổ thuyết duy tâm. Husserl dường như xem những
h́nh ảnh như những tiểu mô h́nh của đối
tượng tri giác được sản sinh hay giữ lại
trong đầu. Ngược lại,
theo Sartre, nếu nhấn mạnh rằng tất cả ư thức
trong bản chất là ư hướng th́ người ta phải kết
luận rằng ngay cả những cái gọi là “h́nh ảnh”
không phải là những đối tượng “trong đầu”
nhưng là những cách thức liên hệ chúng với những
vật thể “trong thế giới” theo cách định h́nh
đúng nghĩa. Tương tự,
những cảm xúc của chúng không phải là những “trạng
thái nội tâm – éats interieurs” nhưng là những phương
cách liên hệ với thế giới; chúng cũng là những
ư hướng. Trong trường
hợp nầy, hành vi cảm xúc (comportement sensible) đưa
đến những thay đổi vật lư và cái mà ông gọi
là cố gắng gần như ảo thuật nhằm biến
đổi thế giới bằng cách biến đổi
chính ḿnh.
“La conscience et le monde
sont donc rigoureusement contemporains et hétérogènes. Dire que ‘toute conscience est conscience de
quelque chose’, c’est à la fois dire que la conscience vise un objet extérieur
et qu’elle ne se confond pas avec lui.”
Căn bản của tự
do theo Sartre có tính cách siêu h́nh: chúng ta tự do v́ chúng ta không
phải là một hiện hữu tại ngả (en-soi-même)
nhưng là một hiện diện với chính ḿnh (presence-à-soi-même)
– siêu việt hay triệt tiêu của chính ḿnh. Điều nầy hàm ngụ rằng
chúng ta là tha nhân của chính ḿnh, bất luận chúng ta là ǵ
hay là những ǵ mà người khác có thể gán cho, chúng ta cũng
vẫn ở “trong tư thế
không phải là cái đó”, nghĩa là, trong tư thế có thể
thực hiện một viển tượng trong chiều hướng
của nó. Khoảng cách nội
tại nầy phản ảnh không những chĩ danh tánh
phi ngả (non-self-identité) của hiện hữu vị ngả
mà c̣n h́nh thành một không gian của cái mà Sartre gọi là “tự
do như là định nghĩa của con người”. Tương ứng với tự
do đó là một trách nhiệm nới rộng. Chúng ta có trách nhiệm đối
với “thế giới” của chúng ta như là chân trời
của ư nghĩa trong đó chúng ta hoạt động và như
thế là v́ mọi vật thể trong đó, bao lâu ư nghĩa
và giá trị của chúng được ấn định
do giá trị của sự lựa chọn căn bản của
chúng ta hướng về đời sống.
“Choisir, c’est non
seulement se choisir, mais choisir l’humanité.”
Tại điểm nầy,
siêu h́nh học và tâm lư học trùng lắp nhau trong khi vẫn
giữ độc lập như từng xảy ra trong hiện
tượng luận.
Sartre sữ dụng ư
hướng như là xương sống của tâm lư học
của ông. Và tâm lư học của
ông là ch́a khóa đi vào siêu h́nh học đang được
thịnh lúc bấy giờ. Thực
ra quan niệm về ư thức định h́nh như trung tâm
của khả thể (locus de possibilité) , phủ nhận, và
mất (négativité et manque) nổi lên như mô h́nh của ư thức
nói chung trong L’Être et Le Néant. Do đó, không phải là quá đáng
nếu mô tả Sartre như là một triết gia của định
h́nh (imaginaire), v́ ư thức định h́nh đóng một vai
tṛ quá quan trọng trong công tŕnh
của ông.
Đạo Đức Học
Sartre là một triết
gia duy đạo đức (moralist) nhưng ít khi là một
nhà đạo đức (moralisateur). Những nghiên cứu ban đầu
của ông, mặc dù có tính hiện tượng luận, nêu
rơ sự tự do và, qua hàm ngụ, trách nhiệm của tác
nhân của phương pháp hiện
tượng luận. Do đó,
ngoài việc xây dựng một lư luận chống lại
chủ thể siêu việt - trung tâm của thuyết duy tâm
Đức và hiện tượng luận Husserl, tác phẩm
chính đầu tiên của ông, La
Transcendance de L’Égo, đưa một chiều hướng
đạo đức vào những ǵ theo truyền thống
được gọi là dự phóng tri thức luận
(projet épistémologique) bằng cách khẳng định rằng
dùng đến một chủ thể siêu việt tức là
che dấu một sự chối bỏ tự do có ư thức.
Xu hướng giản lượt
hiện tượng luận tạo ra những chủ thể
ư thức như những ư nghĩa thuần túy thiếu mất
những qui chiếu hiện sinh vốn làm cho những chủ
thể đó trách nhiệm đối với sự hoài nghi
- một giản lượt hay tách rời vấn đề
hiện sinh như thế cũng mang một ư nghĩa đạo
đức.
“La morale concrète est
une morale de l’être-en-situation.”
Chủ thể đích thực,
theo như sự giải thiách của Sartre sau nầy, sẽ
học cách sống mà không cần đến một cái tôi
(ego), dù siêu việt hay thực nghiệm (transcendant ou
empirique), theo nghĩa cái tôi siêu việt là dư thừa và cái
tôi thực nghiệm là đối tượng của ư thức khi nó phản ảnh trên chính nó.
“La dimension éthique est
en effet constitutive d’un être défini par l’arrachement perpétuel à soi-même.”
Chúng ta trách nhiệm đối
với những cái tôi của chúng ta như đối với
bất kỳ đối tượng ư thức nào. Những công tŕnh tiếp theo của
Sartre cố gắng qui định trách nhiệm đạo
đức cho những tác nhân cá biệt hay tập thể
hoặc xác định những nền tảng cho những
qui định như thế.
Bây giờ người
ta thường phân biệt ba vị trí đạo đức
khác nhau trong những tác phẩm của Sartre. Trước tiên và được
biết đến nhiều nhất, đạo đức
hiện sinh là đạo đức của phản-tha-hóa và
của tính đích thực (désaliénation et authenticité). Đạo đức nầy giả
định rằng chúng ta sống trong một xă hội áp
bức và bóc lột. Áp bức
là bản chất và cá thể, bóc lột là do cơ cấu
và phi cá thể. Trong khi ông đi
vào những cuộc bút chiến rộng lớn với nhiều
bài tiểu luận và báo chí của những năm cuối
thập niên 1940 và 1950 liên quan đến việc giải thích
có hệ thống con người trong các định chế
tư bản và thực dân, Sartre luôn luôn t́m cách qui trách nhiệm
cho những cá nhân có danh tánh rơ ràng trên nguyên tắc. Như Merleau-Ponty nhận xét, Sartre
đặc biệt nhấn mạnh áp bức hơn là bóc lột,
trách nhiệm đạo đức cá nhân hơn là cơ cấu
nhưng vẫn không phủ nhận sự quan trọng của
bóc lột. Thực tế, khi
quan niệm của ông về tự do tăng cường từ
siêu h́nh sang xă hội và lịch sử giửa thập niên
1940, sự đánh giá của ông gia tăng nhanh đối với
ảnh hưởng của những điều kiện thực
tại trong khi thực hành tự do.
Quan niệm của Sartre
về tính đích thực, đôi khi được trích dẩn
như yếu tính hiện sinh duy nhất, thường
được phê bỉnh là nặng h́nh thức hơn nội
dung. Quả thực nó h́nh như dung nạp được
tính đa dạng rộng răi của những lựa chọn
sống thực. Cũng tại
điểm nầy, nền tảng của nó là siêu h́nh. Chúng
ta có thể nói rằng tính đích thực căn bản sống
bằng chân lư siêu h́nh nầy của hoàn cảnh con người,
nghĩa là, con người không bao giờ tự xem là một
với hiện trạng của chính ḿnh nhưng vẫn phải
có trách nhiệm duy tŕ hiện trạng đó. Như thế, câu nói “đó chính là
hiện hữu của tôi” sẽ tạo nên một h́nh thức
tự lừa dối ḿnh (self-déception) hay ngụy tín (mauvaise
foi) giống như tất cả những h́nh thức tất
định thuyết (déterminisme), v́ cả hai đều đưa
đến nói láo với chính ḿnh đối trước sự
thật siêu h́nh về ngẩu nhiên phi ngả (non-self-coïncidence) và đưa
đến sự chối bỏ trách nhiệm chấp nhận
hiện trạng đó.
Qua sự phân biệt căn
bản của hoàn cảnh con người ra thành phàm và siêu
phàm, ngụy tín hay bật đích thực có thể mang hai h́nh
thức chính: một từ chối tự do hay siêu việt
(“tôi không thẻ làm gỉ để thay đổi nó”) và h́nh
thức kia làm ngơ phương diện thực của mọi
hoàn cảnh (“Chĩ cần muốn làm, tôi có thể làm bất
kỳ điều ǵ”). H́nh thức
thứ nhất là h́nh thức phổ biến nhất của
tự lừa dối nhưng h́nh thức thứ hai th́ phổ
thông hơn đối với những người thiếu
nhận thức thực tại trong đời sống của
ḿnh.
Sartre đôi khi nói chuyện
giống như bất kỳ lựa chọn nào cũng có
thể đích thực bao lâu nó được sống với
một ư thức rơ ràng vể ngẩu nhiên và trách nhiệm. Nhưng ư kiến được đem
ra xem xét của ông loại bỏ những lựa chọn
nhằm áp bức hay bóc lột người khác. Nói cách
khác, đích thực không phải là hoàn toàn kiểu cách; có một
nội dung tổng quát và nội dung đó chính là tự do. Chũ đề của Sartre là: tự do là đối tượng
mặc nhiên của mọi lựa chọn, một quan điểm
mà ông đưa ra nhưng không bênh vực chu toàn trong bài diển
văn về thuyết nhân bản của ông.
Nếu h́nh thức đạo
đức đầu tiên và được biết đến
nhiều nhất của Sartre tương ứng với siêu
h́nh học của “L’Être et Le
Néant” th́ h́nh thức thứ nh́, đạo đức “biện
chứng - dialectique” lại xây dựng trên triết lư lịch
sử được triển khai trong “Critique de La Raison Dialectique”.
Trong số những ghi chép không được xuất
bản liên quan đến những bài diển văn trong thập
niên 1960 - một số không bao giờ được đem
ra tŕnh bày – Sartre phát hoạ một lư thuyết về đạo
đức dựa trên những quan niệm về nhu cầu
nhân bản và lư tưởng của “chính nhân – homme intégral ”
tương phản với quan niệm trái nguợc của
nó là “sous-humain”. Nếu những
tài liệu nầy bổ sung được ǵ cho những
lư thuết đạo đức đă phát hành th́ đó chính
là một nội dung chuyên biệt hơn và một nhận định
sắc sảo hơn về những điều kiện xă
hội để sống một cuộc sống của
con nguời đúng nghĩa.
Chính Trị
Về mặt chính trị,
Sartre không can dự ǵ trong những năm 1930, mặc dù ông
nói có thiện cảm với cánh tả như bao nhiêu
người khác. Những năm
chiến tranh, chiếm đóng và kháng chiến đă thay
đổi t́nh thế. Cuối cùng ông thực sự dấn
thân vào cải tổ xă hội và tin rằng người cầm
bút có nghĩa vụ đưa ra những vấn đề
xă hội của thời đại. Ông sáng lập tờ báo công luận
nhiều ảnh hưởng, Les
Temps Modernes, cùng với đồng sự của ông là
Simone de Beauvoir, cũng như Merleau-Ponty, Raymond Aron và những
người khác. Trong phần
giới thiệu của số đầu tiên (10/1945), ông tŕnh
bày tường tận quan điểm của ông về văn
chương dấn thân (Littérature engagée) và nhấn mạnh rằng
nếu không chịu giải quyết những vấn đề
chính trị th́ không khác nào hổ trợ nguyên trạng (statu
quo). Sau một nổ lực
ngắn ngủi bất thành nhằm giúp thành lập một
tổ chức chính trị thiên tả không Cộng Sản, ông
bắt đầu đi vào quá tŕnh quan hệ yêu/ghét dai dẳng
với Đảng Cộng Sản Pháp, một đảng
mà ông không bao giờ gia nhập nhưng trong nhiều năm
ông vẫn xem là tiếng nói đích thực của giai cấp
lao động Pháp. Hiện trạng
nầy tiếp tục kéo dài cho đếm khi Nga Sô xâm lăng
Hung Gia Lợi vào năm 1956.
Tuy thế, ông vẫn tiếp tục có cảm t́nh với
phong trào, nếu không nói là với đảng, trong một số
năm sau đó. Ông đă tóm tắt sự thất vọng
của ḿnh trong bài tiểu luận, “Les Communistes ont Peur de Révolution”, tiếp theo sau những
biến cố Tháng 5, 1968. Từ
đó ông đă chuyển sang cực tả và khuynh hướng
mà người Pháp gọi là học thuyết Mao (Les Maos), một
khuynh hướng chính trị mà ông không bao giờ gia nhập
nhưng lại bị lôi cuốn vi sự pha trộn đạo
đức và chính trị của thuyết nầy.
Sartre thiên về khuynh
hướng mà người Pháp gọi là “chủ nghĩa xă
hội tự do – socialisme libertaire”, một dạng chủ
nghĩa vô chính phủ (anarchisme).
V́ không bao giờ tin tưởng chính quyền, cái mà ông
xem như “tha nhân của chính ḿnh – les autres-en-soi”, nên lư
tưởng của ông là một xă hội với những
quan hệ cởi mở tự nguyện được ông
gọi là “thành phố của những cứu cánh – la ville
des fins”. Ở đó, mọi
người đều như nhau với những người
khác trên phương diện thực tiển. Mỗi người gạt qua những
quyền lợi của ḿnh v́ mục đích chung. Chắc chắn những hành xử
nầy đă bị rắn lại trong các định chế
và tự do một lần nửa bị phương hại
trong guồng máy quan liêu. Nhưng
kinh nghiệm thoáng qua đó về tương giao tích cựa
là mặc khải của mô h́nh một hiện hữu xă hội
đích thực có thể có.
Sartre đi đến chổ nh́n
nhận mức độ mà kinh tế điều kiện
hóa chính trị theo nghĩa là sự khan hiếm vật chất,
như cả Ricardo và Marx nhấn mạnh, quyết định
những quan hệ xă hội của chúng ta. Trong những tác phẩm của
Sartre, sự khan hiếm xuất hiện như nguồn gốc
của bạo động cơ chế và cá nhân trong lịch
sử con người như chúng ta biết. V́ thế nên sự giải phóng khỏi
bạo động sẻ chĩ được thực hiện
qua phản bạo động của cách mạng và sự
h́nh thành của một “chủ nghĩa xă hội phồn
vinh – socialisme d’abondance”.
Điều mà Sartre gọi
là “phương pháp tiến bộ/thoái bộ - progressif/régressif”
dùng cho nghiên cứu lịch sử là một pha trộn của
duy vật sử quan và phân tích tâm lư hiện sinh. Phương pháp nầy tôn trọng
vai tṛ thường quyết định của những xem
xét kinh tế trong giải thích lịch sử (duy vật sử
quan) trong khi nhấn mạnh rằng “con người mà lịch
sử tạo ra không phải là con người tạo ra lịch
sử”. Nói cách kkhác, ông bác bỏ
toàn bộ tất định thuyết kinh tế với châm
ngôn nhân bản của ông: “Bạn
luôn luôn có thể làm một cái ǵ đó từ . . .”
Vốn không bao giờ từ
chối đấu tranh, Sartre trở nên dính dáng vào chiến
tranh Algérie, tạo ra thù nghịch từ cánh hữu đến
độ những thành viên của nhóm Algérie Française cho nổ bom tại cửa vào ṭa nhà ở
của ông. Sartre đóng vai tṛ
chủ yếu trong cuộc chiến
đấu chống sự cai trị của Pháp tại Algérie. Có lẽ ông đă trở nên
người cổ vũ hàng đầu cho Mặt Trận
Giải Phóng Algérie và là một trong những người kư
tên vào Bản Tuyên Ngôn 121. Ông chống
đối Chiến Tranh Việt Nam và, cùng với Bertrand
Russell và những người khác, đă tổ chức một
ṭa án - được gọi là Ṭa Án Russell -
nhằm tố cáo “tội ác chiến tranh của Mỹ”. Không rơ từ sau tháng 4/1975 đến
ngày qua đời vào tháng 4/1980, Sartre có thay đổi lập
trường phản chiến của ông đối với
Chiến Tranh Việt Nam như trường hợp của
Joan Baez và Jane Fonda hay không.
Tác Phẩm Tiêu Biểu
La Transcendance de L’Égo: Esquisse d’une Description Phénoménologique là một tiểu luận triết
học và tâm lư của Sartre năm 1937. Tiểu luận nầy cho thấy
sự chuyển hướng của Sartre ra khỏi hiện
tượng luận cỗ truyền và đáng ghi nhận
nhất là sự đoạn giao của ông đối với
trường phái Edmund Husserl để đi vào trường
phái của chính ông. Sự chuyển hướng nầy rơ nét
hơn sau khi Sartre bị động viên vào quân đội từ
năm 1939, thời kỳ mà ông có một nhản quan tương
đối thiện cảm hơn về hiện hữu
trong thế giới, một đề tài được diển
tả chi tiết hơn nhiều trong tác phẩm L’Être et le Néant, 1943. Tiểu luận nầy là bắt
đầu quá tŕnh mà Sartre nghiên cứu và kết hợp hiện
tượng luận với siêu h́nh học. Căn bản của tiểu luận
là đánh giá cao mô tả của Husserl về những đối
tượng ư hướng như những thực thể
độc lập, nhưng đồng thời xem cái tôi như
một thực thể “trong thế giới” chứ không đơn
thuần là ư thức. Với
Sartre, đúng ra nên mô tả cái tôi như một đối
tượng của ư thức.
Đối tượng ư hướng là những đối
tượng của ư thức; nghĩa là, những đối
tượng vật lư, những con số, giá trị, tâm hồn,
và con người tâm-vật-lư mà Sartre xem xét nên được
nghiên cứu độc lập. Khác với Husserl, Sartre cho rằng
giá trị của những đối tượng ư thức
nằm bên trong ư thức về chúng. Do đó, những đối tượng
ư thức vừa là đối tượng của ư thức
vừa là ư thức, và sở dĩ như thế là v́ ư thức
vừa là chính nó vừa là phản ảnh của nó. Sartre mô tả cogito (Je pense donc je suis)
của Descartes bằng cách ghi nhận rằng cái “ư thức
nói rằng tôi nghĩ” - tức cái ư thức có khả năng
phản ảnh trên tiến tŕnh suy tư của tinh thần
– không phải là cái “ư thức đang suy nghĩ”. Cho nên người ta có thể suy
nghĩ về sự suy nghĩ của chính ḿnh, và ư thức
vừa là nó vừa là phản ảnh của chính nó.
Với Sartre, những đối
tượng ngẩu nhiên là những đối tượng
của ư thức và ư thức vừa là ư thức đơn
thuần vừa là ư thức phản ảnh. Hơn nữa, ư thức
ở trong thế giới khi chúng ta ư thức về những
sự vật, nhưng chúng ta cũng ư thứcvế chính chúng
ta, những chủ thể đang ư thức về sự vật,
cho nên sự vật và ư thức của chính chúng ta về sự
vật dấy động ư thức phản ảnh của
chúng ta, tiếc thay không có một lối giải thích nào dễ
dàng hơn hay nghe ra ít thông tục hơn về những ǵ
muốn nói ở đây. Cũng
nên ghi nhớ một điều là ư thức về phản
ảnh không thể nào được phản ảnh. Trong chiều hướng nầy đối
với Sartre, sự cấu tạo của cái tôi là những
trạng thái và hành động mà nó hổ trợ. Điều nầy muốn nói rằng
sự hiện hữu vật chất của sự vật ngược lại
chứng minh siêu h́nh của đối tượng đang
trầm tư về chúng. Do đó,
cái tôi không là cái ǵ cả nếu không có một cái ǵ để
trầm tư trong đó; nó phải dựa vào chính nó và vào sự
hiện hữu của nó. Hơn
nữa, sự linh động của ư thức đối
với Sartre là khả năng trầm tư một cái ǵ khi
nó vắng mặt; điều nầy đặc biệt dành
riêng cho quan niệm của ông về phản ảnh.
Sartre khảo luận về
cái tôi trong hiện tượng luận v́ đó là đề
tài mà người sáng lập, Husserl, đă không thể khảo
luận. Husserl không khảo luận
những liên hệ giửa ư thức và con người, chẳng
hạn: tác nhân tri thức các hiện tượng và tôi không
phải là một sao? Mục
tiêu của tiểu luận La
Transcendance de L’Égo là chứng minh rằng, trừu tượng
cũng như cụ thể, cái tôi không ở trong ư thức,
mà trong thế giới.
“L’égo n’est ni
formellement ni matériellement dans la conscience, mais dans le monde.”
Muốn làm thế, Sartre
sẽ tiên hành một phản ảnh xuất phát từ định
nghĩa của Kant về chủ thể, và tiến đến
đoạn giao với quan niệm của Freud vế ư thức
và vô thức. Chính qua tiểu
luận nầy mà xuất hiện quan điểm nổi tiếng
của Sartre:
“Hiện
hữu có trước yếu tính – l’existence précède l’essence”
La Nausée chính
là mô h́nh tiểu thuyết triết học của Sartre, biểu
tượng cho một tuyên ngôn của thuyết hiện sinh và được nh́n
nhận là một trong những tiều thuyết hay nhất
của Sartre. Ông tin rằng những
tư tưởng của chúng ta là sản phẩm của
những kinh nghiệm trong những
hoàn cảnh sống thực, và tin rằng những tiểu
thuyết và kịch bản của ḿnh có thể mô tả chính
xác những kinh nghiệm căn bản như thế, có giá
trị tương đương với những tiểu
luận triết học nhằm cải thiện những lư
thuyết triết học như thuyết hiện sinh. Với mục đích ấy, tiểu
thuyết nầy dựng lên Roquentin, một nhà khảo cứu
phiền nảo tại một tỉnh lỵ tương tự
như La Havre, trở nên ư thức
sâu sắc được thực tế là những vật
vô tri và hoàn cảnh tuyệt đối lảnh đạm
với sự hiện hữu của ḿnh. Như thế, chúng chứng tỏ
phản kháng mọi ư nghĩa mà ư thức con người có
thể tri giác được nơi chúng. Sự thờ ơ nầy của
sự vật tự tại càng có tác dụng làm nổi bật
tự do của Roquetin khi tri thức và hành động trong
thế giới; bất kỳ nh́n về hứớng nào th́
y vẫn thấy những hoàn cảnh mang những ư nghĩa
có dấu vết sự hiện hữu của ḿnh. Đó là lư do tại sao từ “nausée - buồn nôn” được
dùng làm tựa của cuốn sách; mọi chuyện gặp
phải trong đời sống hằng ngày của y đều
nhuốm một mùi vị khắc khe, ngay cả ghê tởm
- cụ thể là chính tự do của ḿnh. Cuốn sách lấy từ ngữ đó
từ tác phẩm “Ainsi Parlait
Zarathustra” của Frédérich Nietzsche, trong đó từ nầy
được dùng trong văn mạch nói về tính chất
thưởng buồn nôn của cuộc sống. Bất luận có ao ước bao
nhiêu về một cái ǵ khác hay mới đi nữa th́ y vẫn
không thể thoát ra khỏi sự hiển nhiên đau đớn
về sự dấn thân của ḿnh với thế giới.
Roquentin biểu hiện phần lớn những chủ
đề chính của “L’Être et
Le Néant” xuất bản năm năm sau. Tác phẩm được xem như
sự trầm tư nối dài về ngẩu nhiên của sự
sống và về nổi khắc khoải của tinh thần
phản ảnh hiện tượng ngẩu nhiên đó. Trong một thoáng trầm tư về
một cái rể cây, Roquentin cảm nhận được
sự tàn nhẩn trong sự hiện hữu của nó và của
chính ḿnh: cả hai đơn
thuần chĩ hiện hữu ở đó, không một biện
minh nào, thừa thải (de trop).
Tính cách vật lư của cảm thức bệnh hoạn
đầy mặc khải nầy
không nên bị xem thường.
Tương tự như sự bối rối trước
cái nh́n của Tha Nhân (Autre), ư hướng cơ thể của
chúng ta luôn mặc khải một thực thể siêu h́nh.
“L’enfer c’est les autres.”
L’Être et Le Néant: Essai d'Ontologie Phénoménologique là một luận
án triết học của
Sartre. Mục tiêu chính của luận án nầy là định
nghĩa ư thức như một hành động phủ nhận
(một siêu việt của thế giới hiện có). Quan tâm hàng đầu của Sartre
khi viết L’Être et Le Néant là
biện minh cho tự do căn bản của con người
chống lại tất định thuyết dưới mọi
h́nh thức. Chính v́ tự do nầy
mà Sartre khẳng định sự vô hiệu của nhân quả
vật lư đối với con người, mà ông phân tích vị
trí của hư vô (le néant) bên trong ư thức và cho thấy rằng
hư vô nầy can dự thế nào vào những lực tác
động trên chúng ta và những hành động của chúng
ta. Khi bị Đức bắt
làm tù binh từ 1940 đến 1941, Sartre đă đọc Sein
und Zeit (Hiện
Hữu và Thời Gian) của Martin Heidegger, một nghiên cứu siêu h́nh học
qua lăng kính và phương pháp hiện tượng luận
của Husserl. Tác phẩm nầy
đă khai nguồn cho nghiên cứu của Sartre, đưa
đến việc xuất bản L’Être et Le Néant vào năm 1943 mang phụ đề Essai d'Ontologie Phénoménologique . Tiểu luận
của Sartre rơ ràng chịu ảnh hưởng của
Heidegger mặc dù Sartre rất hoài nghi những biện pháp
giúp con người có thể đạt được một
trạng thái thỏa mản cá nhân tương tự như
sự tái ngộ với hiện hữu theo lư thuyết của
Heidegger. Theo một lối giải thích bi quan hơn của
Sartre trong L’Être et Le Néant, con người là một sinh vật
bị săn đuổi bỡi một nhản giới toàn
hảo, nhản giới mà Sartre gọi là ens causa sui (hiện hữu tự sinh tự tại),
và các tôn giáo định nghĩa là Thượng Đế. Sinh ra trong thực thể vật
chất của thân thể ḿnh, trong một vũ trụ hoàn
toàn vật chất, con người tự thấy ḿnh bị
xô đẩy vào hiện hữu.
Ư thức là một trạng thái sống chung với thân
thể vật chất của ḿnh, nhưng không có thực
thể khách quan nào; đó là hư vô. Ư thức có khả năng quan niệm
được những khả thể, và khiến chúng xuất
hiện, hay khiến chúng triệt tiêu.
Trong phần nhập
đề, Sartre phát họa lư thuyết riêng của ḿnh về
ư thức, hiện hữu, và hiện tượng bằng cách
phê phán cả những triết gia hiện tượng luận
thuộc thời kỳ đầu (Husserl và Heidegger) lẫn
trường phái duy tâm, duy lư, và duy thực. Theo ông, một trong những thành tích
lớn nhất của triết học hiện đại
là đă giải phóng chúng ta ra khỏi những h́nh thức
nhị nguyên vốn quan niệm hiện hữu có một bản
chất “ẩn dấu” như noumène
(linh hồn) của Kant; hiện tượng luận đă
gạt bỏ “ảo tưởng về những thế giới
hậu trường”. Căn cứ
trên quan sát tính chất của hiện tượng Sartre mô tả
tính chất của hai loại hiện hữu: tại ngả
và vị ngả (être-en-soi và être-pout-soi). Hiện hữu tại ngả là cái
chĩ có thể được phỏng đoán mà thôi, một
loại hiện hữu chĩ có thể h́nh dung như chính
nó nếu được h́nh dung mà không có một ư thức chứng
kiến; ngược lại hiện hữu vị ngả
là hiện hữu của ư thức.
L’Existentialisme Est un Humanisme là một trong
những tác phẩm triết học chính của Sartre, xuất
bản năm 1946, và được nhiều người
xem như một trong những tài liệu lư thuyết của
phong trào hiện sinh. Sartre cho rằng
định nghĩa then chốt của thuyết hiện
sinh là hiện hữu (existence) của con người có trước
yếu tính (essence). Nói một
cách đơn giản, điều ầy có nghĩa là, mặc
dù con người hiện hữu, không có cài ǵ qui định
cá tính và những mục tiêu trong đời v.v. Chĩ có chính con người mới
có thể định nghĩa yếu tính của ḿnh: Truớc hết con người hiện
hữu, đối diện với chính ḿnh, vươn lên
trong thế giới – và tự định nghĩa ḿnh sau đó. Như thế, Sartre bác bỏ điều
mà ông gọi là “đổ lỗi số mệnh – prétexte déterministique”
và cho rằng tất cả mọi người phải chịu
trách nhiệm về hành vi của ḿnh.
“Bien que n’étant pas le
fondement de son être, l’homme est responsable, de façon accablante, du monde
et de lui même.”
Sartre định nghĩa
lo âu (anxiété) và thất vọng (désespoir) như những cảm
xúc mà con người cảm thấy một khi nhận thức
được rằng họ có
trách nhiệm về mọi hành động của ḿnh. Ông cũng định nghĩa ruồng
bỏ (délaissement) như sự cô đơn mà những
người vô thần cảm thấy khi nhận ra ḿnh lẻ
loi, và không có Thượng Đế nào chăm sóc họ. Cảm xúc nầy được
liên kết với thất vọng và lo âu. Sartre cũng khẳng định
rằng, nếu t́m tự do cho chính ḿnh từ những thế
lực giả tạo, ngoại tại, th́ con gnười đồng thời
phải tôn trọng tự do nầy đối với kẻ
khác (do đó, thuyết hiện sinh đưa ra một h́nh
thức nhân bản).
“Cette volonté de liberté
comme telle comporte nécessairement une dimension d’universalité: je ne peux reconnaître et vouloir ma liberté
sans, du même coup, reconnaître celle des autres.”
Những chủ đề
chính của thuyết hiện sinh:
Lương Tấn Lực