Trường Phái Lăng Mạn trong Văn Học Pháp

Quelques Vues Générales sue le Romantisme Français – Allais Gustave

Phần IV:  Bi Quan Triết Học (Pessimisme Philosophique)

Lương Tấn Lực

Licence d’Enseignement en Littérature Française – Univiersité de Saïgon

Licence d’Enseignement en Philosophie Occidentale – Université de Saïgon

L’âme remonte au ciel quand on perd ce qu’on aime.

Il ne reste de nous qu’un cadavre vivant.

Alfred de Musset

 

Dưới hai h́nh thức mà chúng ta đă tŕnh bày trước đây, và nếu liên kết, một với đam mê, một với sự ngạo nghễ, th́ tóm lại cảm thức bi quan xuất phát từ cùng một tư tưởng giống nhau và duy nhất - tức nỗi ưu tư uất nghẹn và tuyệt đối về cái tôi;  đó chính là cảm thức bi quan mang nặng sắc thái ích kỷ.

 

Nhưng có một loại bi quan khác, hoàn toàn vô ngă và mang lối nh́n hoàn toàn bao quát.  H́nh thức nầy liên quan đến chính những điều kiện của cuộc sống con người, đến những suy tư ít nhiều buồn bă mà cuộc sống nầy mang lại,  cuối cùng đến tư tưởng cho rằng có nhiều điều  xấu trong thế giới nầy.  Điều xấu th́ phức tạp và đa dạng:  phương diện vật lư như cái chết, bệnh tật,  đau khổ thể xác; phương diện tinh thần như sự dốt nát, đau khổ xuất phát từ óc tưởng tượng luôn luôn đi t́m một lư tưởng mới và không bao giờ được toại nguyện, như những phiền năo của con tim, những nuối tiếc đến từ sự mất mát những người thân yêu; phương diện xă hội như những đau khổ của người nghèo, lầm than, chênh lệch giàu nghèo, những bất công đối với giới b́nh dân và thấp kém.  Đó là những dữ kiện rất được mọi người biết đến.  Trong những tư tưởng bi quan mà những dữ kiện đó gợi ra, đương nhiên phải nói đến nhũng ấn tượng cá nhân đến từ những thử thách mà chính con người đă kinh qua.  Nhưng cũng c̣n một thực tế khác là, thay v́ quay về với chính chủ thể như h́nh thức  bi quan đề cập trước đây, bây giờ người ta lại tự quên ḿnh đi, ra khỏi chủ thể, hoàn toàn tự thoát ly.  Người ta cảm nhận rằng những kẻ khác đang đau khổ, và người ta cảm nhận một nỗi buồn mênh mông, và tư tưởng con người chuyển hướng sang những sinh vật đau khổ, tràn đầy thông cảm và thương xót.

 

Đó là một h́nh thức  tư tưởng vốn đă rất cao thượng; nhưng càng cao thượng hơn và phổ biến hơn.   Con người ít có khả năng đạt đến chân lư, đạt đến hạnh phúc; và tuy thế, đối với cả chân lư lẫn hạnh phúc, con người đều ước ao ham muốn, và sống trong một dằn vặt bất tận, luôn luôn bị ném vào cuộc săn đuổi cái toàn mỹ ngoài tầm tay với ấy, luôn luôn bị dày ṿ bởi những hoài băo  khôn nguôi. Hỡi trái tim bất ổn!  Nhưng tại sao lại khao khát như vậy, tại sao lại săn đuổi không mệt mỏi và vô vọng như thế đối trước cái toàn mỹ mà người ra không thể đạt được?  Chân lư ấy, hạnh phúc ấy, phải chăng con người sẽ không bao giờ đạt được?  Ở đâu, khi nào, và bằng cách nào?  Nếu không phải trên đời nầy th́ chắc sẽ là nơi khác, bên kia cuộc sống dương gian?  Nhưng nếu thế th́ số kiếp con người là ǵ đây?  Chúng ta sống trên đời nầy làm ǵ?  Thực chất và định nghĩa con người là ǵ?  

 

Bao nhiêu câu hỏi phiền phức và ngay cả khủng khiếp.  Đối với một số người, thượng đẳng về trí tuệ và tâm hồn, những vấn đề kia là đối tượng của một suy tư triệt để, luôn luôn hiện hữu và tức khắc; vấn đề đó có thể trở thành một dày xéo tinh thần thực sự và tạo nên một âu lo siêu h́nh của một Pascal hay một Jouffroy.  Đó chính là bi quan triết học.  Nói cách khác, chẳng có ǵ ích kỷ trong một sự đau khổ như thế, v́ đau khổ đó duy nhất phát xuất từ cảm tưởng nhức nhối gây ra bởi những vấn đề lớn sâu thẳm và không thể giải quyết được, vượt thời gian cũng như không gian, và phổ cập cho mọi thời đại nhân loại.  Ưu tư về những vấn đề đó đến độ đau khổ v́ chúng, đó chính là thực tại của những tâm hồn lớn.

 

Những vấn đề đó chính là những vấn đề mà triết học và tôn giáo đă nỗ lực giải quyết.  Tôn giáo mang lại giải pháp của họ hoàn toàn thực tế và đơn giản, bằng cách bảo chúng ta tin và hy vọng, tin vào Thượng Đế và đừng t́m hiểu những bí mật vượt quá lư trí con người.  Triết học không ngại sử dụng lư trí con người để cố xem xét và bàn luận những vấn đề lớn đó: và triết học chỉ đi đến bất xác, đến sự hỗn loạn của nhiều hệ thống, đến một dao động vô bổ của những tư tưởng gây nên hoang mang và không lành mạnh.

 

Với trường phái lăng mạn, những câu hỏi nghiêm trọng kia, bề ngoài dường như dành cho những triết gia và những nhà truyền giáo, đă đi vào văn học và trở thành những chủ đề thi ca.  Ở đây cũng vậy, chính Chateaubriand mở đường khi viết Génie du Christianisme,  tác phẩm có mục đích triệt hạ ảnh hưởng của những nhà ngụy biện của thế kỷ nười tám và ḥa giải con người với tôn giáo.  Chateaubriand muốn cộng tác với công tŕnh tôn giáo của Concordat và nỗ lực đưa niềm tin về lại những tâm hồn.  Nhưng chính ông lại nhận thấy hoài nghi và ông đă đau khổ v́ sự hoài nghi nầy.  Cũng như ông, giới trẻ năm 1802 cũng đau khổ như thế - đó là những René, những nhân vật của Byron.  Cuối cùng t́nh trạng dao động tinh thần đó đă xuất hiện trong thi ca Pháp với những nhà văn lăng mạn đầu tiên.  Tác phẩm Méditations của Lamartine diễn đạt   cho chúng ta rất rơ ràng điều đó.

 

Cũng như Lamartine, những thi sỷ lăng mạn từ nay bắt đầu đề cập đến những câu hỏi loại nầy.  Và luôn luôn vấn đề sẽ đặt ra với t́nh cảm cay đắng và âu lo giống nhau:  “Tại sao trên đời nầy lại có nhiều điều xấu như thế?  Tại sao lại dành cho con người một trời đau khổ như thế?  Tại sao chút ít hạnh phúc dành cho con người lại ngắn ngủi như thế?  Và nếu đó là những điều kiện hiện hữu th́ phải Nổi loạn và nguyền rủa Thượng Đế? Ngược lại có phải cam chịu và tuân theo ư chí tối thượng kia bên trên chúng ta, có những ư hướng bất khả tri đối với chúng ta, những ư hướng mà chúng ta phải tin là ân điển và công bằng? ”

 

Chúng ta hăy nghe Alfred de Vigny trong Les Destinées, đoản khúc cuối (khi nhà thơ nói với Destinées, những nàng con gái của Destin):

 

Oh! Dans quel désespoir nous sommes encore tous!…

(Ôi! Tất cả chúng ta hăy c̣n trong tuyệt vọng!…)

 

Bài thơ chấm dứt với những câu thơ sau, chứa đựng một tư tưởng cam đành và niềm tin:

 

Notre mot éternel est-il: “C’était écrit”?

“Sur le livre du Dieu”, dit l’Orient esclave;

Et l’Occident répond: “Sur le livre du Christ”.

**

(Phải chăng lời nói  muôn thuở của chúng ta là: “Định mệnh đă an bài”?

“Trong sách của Thượng Đế”, theo lối nói của người nô lệ Phương Đông;

Và Phương Tây đáp lại:  “Trong sách của Chúa Ky Tô”)

 

Nhưng Destinées thuộc năm 1849; cho nên bài thơ trên vượt quá giai đoạn chúng ta đang nói.  Chúng ta hăy trở lại với Alfred de Musset.

 

Musset và bệnh thế kỷ (le mal du siècle).- Nơi Musset, bi quan triết học không chỉ là một tư tưởng nhiễu loạn; đó là một cái ǵ dày ṿ và bi thảm.  Trong số các thi sỷ Pháp, chính ông là người có tâm hồn cảm nhận mănh liệt nhất bệnh thế kỷ và diễn tả  bệnh nầy với cảm xúc cá nhân và hùng biện thâm u nhất.  Có nhiều điểm lư thú khi theo dơi trạng thái tâm hồn của thi sỷ từ La ConfessionRolla cho đến La Nuit d’Octobre l’Espoir en Dieu.

 

Sinh năm 1810, Musset trưởng thành trong thời kỳ mà thế hệ trẻ Pháp vào đầu thế kỷ mười chín đang bị ngự trị bởi trạng thái tâm hồn bệnh hoạn và nhiễu loạn, thất vọng và mệt mỏi, trạng thái mà người đă gọi là bệnh thế kỷ, và Musset gọi bằng một từ vô cùng diễn đạt   là “tuyệt vọng - désespérance”.   Bệnh đó, dịch đó của những tâm hồn trẻ, ông đă tường thuật lại trong những trang đầu của La Confession d’un Enfant du Siècle.  Đó chính là bức tranh tinh thần  trong số những bức tranh tinh thần lạ lùng nhất và se thắt nhất.

 

Nhưng phải bổ sung câu chuyện đó bằng một số trích đoạn của Rolla, một tác phẩm mặc dù có trước La Confession vài tháng. Xin nhớ rằng Rolla được viết năm 1833, thời kỳ mà Musset quen biết George Sand, và tác phẩm được xuất bản năm 1835; La Confession được bắt đầu ít năm sau sự chia tay của đôi t́nh nhân thành Venise (1834), và xuất bản 1836.

 

 

Dors-tu content, Voltaire?

(Ông bằng ḷng ngủ yên chưa, Voltaire?)

Và đoạn buộc tội sau đây:

Vois-tu, vieil Arouet?  Cet homme plein de vie…

Sera couché demain dans un étroit tombeau…

Sois tranquille, il t’a lu.  Rien ne peut lui donner

Ni consolation ni lueur d’espérance.

Si l’incrédulité devient une science,

On parlera de Jacque…

**

(Ông có thấy không, ông Arouet? Người đàn ông kia vốn đầy sức sống…

Ngày mai lại sẽ ngủ trong một nấm mồ chật hẹp…

Ông cứ yên ḷng đi, hắn ta đă đọc sách của ông. Hắn không thể đón nhận được ǵ

Không một an ủi hay một tia hy vọng nào.

Nếu vô tín ngưỡng trở thành một khoa học,

Th́ người ta sẽ nhắc đến Jacque…)

 

Thực ra tại sao Jacques Rolla lại tự đầu độc ḿnh trong ṿng tay của một gái điếm hạng sang?  Chính v́ kẻ trụy lạc kia, sau khi mất hết niềm tin và điểm tựa trong hy vọng một thế giới bên kia tốt đẹp hơn, đă không c̣n can đảm để sống và làm người.  Tự sát bấy giờ phải chăng là là sự hèn nhát tột đỉnh?... Nói ǵ đi nữa th́ măi măi đó chính là từ ngữ cuối cùng mà cảm thức bi quan đi đến khi gia trọng với vô tôn giáo; và dứt khoát công bằng nếu quy trách nhiệm thực trạng đó cho những nhà ngụy biện nguy hiểm đă không ngần ngại xô đẩy con người đến chỗ vô tín ngưỡng và nhạo báng tôn giáo.

 

Nhưng Voltaire không phải là tội phạm duy nhất.  Bệnh thế kỷ c̣n có những nguồn gốc xa hơn trong René và trong những tác phẩm của Gœthe và Byron:  tất cả những ảnh hưởng đó gộp lại đă ném lên thế kỷ mười chín những tư tưởng bi quan và tuyệt vọng u ám.  Đó là điều mà Musset tŕnh bày trong phần mở đầu của  Confession.  Và chính v́ điểm nầy mà chúng ta đă ra khỏi văn học Pháp để đề cập đến WertherFraust cũng như những nhân vật của Byron.  Chính sự đồng giao các ảnh hưởng đó đă xác định trào lưu bao la của bi quan tinh thần, triết học, và tôn giáo từng gieo rắc bao nhiêu tàn phá trong nhiều thế hệ nhân loại và chính chúng ta ngày nay vẫn c̣n đau khổ v́ trào lưu đó.

 

Chúng ta hăy đọc trích đoạn trong  Confession d’un Enfant du Siècle, phần I, chương II.  Vào thời đó, hai nhà thơ, hay đúng hơn hai thiên tài đẹp nhất của thế kỷ sau Napoléon đă cống hiến đời ḿnh để tập hợp tất cả những thành tố âu lo và đau khổ rải rác trong vũ trụ.” Đoản văn đó muốn nói đến Gœthe (Werther, Fraust) và Byron (Manfred).

Và xa hơn: “Khi những tư tưởng Anh và Đức đi qua tâm trí chúng ta như thế, đó không khác nào một nghịch vị âm thầm và tẻ nhạt, theo sau một rùng ḿnh ghê gớm… Đó tương tự như chối bỏ tất cả vạn vật trên trời dưới đất, hiện tượng mà người ta có thể gọi là tuyệt vọng.

Xa hơn nữa là đoản văn tuyệt ư sau:”Tương tự như bệnh dịch Châu Á gây ra do hơi nước bốc lên từ sông Hằng Hà, cảm thức tuyệt vọng hiên ngang bước đi trên mặt đất.  Chateaubriand, ông hoàng của thi ca, đă từng ôm ấp thần tượng khủng khiếp đó…”

 

Thế rồi chưa kể những hệ quả tai hại của tư tưởng bi quan trên giới trẻ: “Có ai dám kể lại những ǵ xảy ra bấy giờ trong các trường đại học?  Người ta hoài nghi tất cả: giới trẻ phủ nhận tất cả.

 

Cuối cùng điệp khúc về cái chết lặp đi lặp lại xuyên suốt các tầng lớp xă hội; người giàu th́ tự bảo: “Chỉ có giàu sang là có thật, c̣n ngoài ra toàn là ảo mộng; chúng ta hăy hưởng thụ đi rồi chết.  Những người trung lưu th́ bảo: “Chỉ có quyên lăng là thật, c̣n ngoài ra toàn là mơ mộng; hăy quyên đi rồi chết.” Người nghèo th́ bảo: “Chỉ có đau khổ là thật, ngoài ra chỉ toàn là mơ mộng; hăy nguyền rủa đi rồi chết.

 

Les riches se disent: “il n’y a de vrai que la richesse, tout le reste est un rêve; jouissons et mourons”; les hommes de fortune médiocre: “il n’y a de vrai que l’oubli; tout le reste est un rêve; oublions et mourons”; et les pauvres: “il n’y a de vrai que malheur, tout le reste est un rêve; blasphémons et mourons.”

 

Có thể trong số người đọc như bạn ngạc nhiên khi nghe nói Musset là một trong những biểu tượng của chủ nghĩa bi quan triết học.  Thực vậy, nếu có một nhà văn nào thiếu vắng những đặc tính tinh thần của một triết gia, thí đó chính là Musset; Musset chỉ là một nhà trí thức, không kém; ông có được những đức tính cũng như những khuyết điểm dành cho một nhà thơ; đó là một người đa cảm, xuẩn động, mơ mộng, hoàn toàn xuôi theo ấn tượng, luôn luôn căng thẳng, nhạy bén.  Như thế tại sao lại cho rằng chỉ nh́n thấy nơi ông nỗi ưu tư  lo lắng về những vấn đề bất diệt?  Đó phải chăng là hoàn toàn nghịch lư?

 

Vế vấn đề nầy, có nhiêu điểm cần giải thích.  Trước hết, xin nhớ rằng đây không phải là một nghiên cứu tâm lư học hoàn chỉnh về Alfred de Musset, cũng như trường hợp của những nhà văn được đề cập trước đây như Gœthe, Byron và Chateaubriand.  Hiển nhiên Byron cung ứng cho chúng ta sự diễn đạt   của bi quan đam mê cũng như bi quan ngạo nghễ, và chúng ta t́m thấy nơi Chateaubriand bi quan tinh thần và triết học cũng như bi quan đam mê.  Ngoài ra, chắc chắn rằng, nơi Musset, bi quan đam mê là nền tảng sơ khởi của một bi quan nói chung.  Nhưng trong một tài liệu nghiên cứu như tài liệu nầy, trong đó chúng ta chỉ tập trung vào những nét lớn của vấn đề, chúng ta phải nh́n nhận sự phụ thuộc của tư tưởng và thực tại vào một quan điểm nào đó, nghĩa là vào một tư tưởng khống chế, chỉ đạo, và vượt lên trên những chi tiết chỉ được quan tâm và tŕnh bày ở nơi khác.

 

Ít ra, đối với Musset, phải chăng quan điểm của chúng ta là đúng?  Trong khi quan sát những thời kỳ lịch sử liên tiếp và sự tiến hóa tinh thần của nhiều thế hệ, dường như có một sự phức tạp mỗi ngày một lớn  trong trạng thái tâm hồn con người của thời đại chúng ta, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.  Bệnh thế kỷ là chung cho Chateaubriand, Byron, Alfred de Musset.  Nhưng h́nh như nơi Musset bệnh thế kỷ bao gồm những yếu tố phức tạp hơn nơi những nhà văn khác.  Nơi Chateaubriand, bệnh thế kỷ chính là nỗi phiền muộn (ennui); nơi Byron, chính là sự ngạo nghễ (orgueuil); nơi Musset, … th́ lại có nhiều vấn đề.

 

Sự  tuyệt vọng của Musset trực tiếp bắt nguồn từ sự vô năng của một cuộc sống trụy lạc và nỗi chán chường liên quan mà nhà thơ cảm nhận.  Nỗi tuyệt vọng đó bắt ngưồn sâu xa từ xu hướng vô tín ngưỡng đầy mĩa mai của Volraire, cảm thức bi quan đam mê của Werther và từ sự phiền muộn cô đơn của René. Sự tuyệt vọng chứa đựng trong chính nó sự dày ṿ tinh thần của Fraust và tinh thần Nổi loạn của Manfred.  La Confession đă thể hiện điều đó.  Và đó chưa phải là tất cả.  Trong sự phức tạp của các hiện tượng tinh thần đó c̣n có những tàn dư tín ngưỡng và sự đau khổ đặc biệt và ray rứt do nhu cầu tín ngưỡng bị ngán trở trước sự bất lực không thể tin tưởng một cách đầy đủ.

 

Do đó, có thể nói trạng thái tâm hồn của Musset tổng hợp và tóm lược nơi ông những biểu hiện từng được quan sát về bệnh thế kỷ, và sự tuyệt vọng của ông bao gồm những yếu tố của các h́nh thức bi quan khác.

 

Nhưng c̣n phải nói thêm rằng, bất chấp những cường độ cảm xúc và đau khổ cá nhân, bất chấp ảnh hưởng sâu xa dai dẳng của chúng trên tâm hồn nhà thơ, Alfred de Musset đă thành công  từng bước vươn lên những tư duy cao hơn và thoát ly khỏi cái tôi của ḿnh.  Ông đă vươn lên đến  sự biểu hiện những tư tưởng thực sự phổ quát và triết học.  Ở đây chúng ta không nói đến quan niệm trừu tượng và thuần túy siêu h́nh; chúng ta chỉ nói đến một triết lư về cuộc đời, trong đó những tư tưởng thường thường rất thực và rất triết lư hơn cả nhũng hệ thống bác học dành cho những triết gia chuyên nghiệp.  Hệ thống có một cái ǵ vô tri và khiến chúng ta thờ ơ như một tṛ chơi tinh thần;  ngược lại, những tư tưởng sống thực vẫn c̣n dao động trước những đau khổ cảm nhận và những ḍng nước mắt chảy ra, chúng có một cái ǵ nghiêm trọng và xúc động, và chúng tác động lên chúng ta một cách sống động bởi v́ người ta t́m thấy ở đó nỗi buồn của nhân loại đau khổ.

 

Chính trong những tác phẩm viết từ 1836-1838 Musset đă vươn lên những tư tưởng cao vời ấy. Trích dẫn la Lettre à Lamartine, la Nuit d’Octobre l’Espoir en Dieu là gợi nhớ những tác phẩm bất hủ; và người ta không thể kiềm chế cảm xúc của ḿnh khi đọc lại chúng.

 

Trong La Nuit de Mai (1835), niềm đau khổ lớn của nhà thơ như mới đâu đây, vết thương hăy c̣n rướm máu; con tim của ông rỉ máu như cái lồng ngực mở toang của con bồ nông và sự hy sinh cao cả được ông mô tả về nó.  Tư tưởng chi phối tác phẩm này là nỗi đau khổ thăm thẳm;  sự diễn đạt   đau khổ đó liên tục và âm thầm, nhưng người ta không cảm thấy sự bức xúc gay gắt của tuyệt vọng.

 

Chín tháng sau (2/1836),  ra đời la Lettre à Lamartine.  Niềm đau của Musset vẫn luôn luôn sâu thẳm; sự diễn đạt   có lẽ ít se thắt hơn; một lắng dịu nào đó đă đến với tâm hồn ông, đó chưa phải là cam đành phủ phục với đau khổ và chấp nhận nó.

 

Devoré comme toi d’un affreux souvenir,

Je me suis étonné de ma propre misère…

Comment exprimerais-je une peine indicible?...

Ce ne sont pas des chants, ce ne sont que des larmes.

**

(Dày xéo như ông v́ một kỷ niệm đớn đau,

Tôi đă ngơ ngác trước nỗi đau thương của chính ḿnh…

Làm sao tôi có thể diễn tả  đuợc một nỗi đau không thể nói nên lời?...

Đó không phải là những lời ca, đó chỉ là những giọt nước mắt. )

 

Tuy nhiên những suy tư ấy đă bắt đầu tách ḿnh ra khỏi những kỷ niệm cá nhân; đó là những yếu tố đầu tiên của h́nh thức  “triết lư về đời sống”, với bối cảnh luôn luôn u buồn nơi những ai từng yêu và đau khổ v́ t́nh:

 

Quel tombeau que le cœur et quelle solitude!...

Et comment se fait-il que, sans y trébucher,

Sur ses propres débris l’homme puisse marcher?

Tout passe et disparait, tout est fantome en lui…

L’âme remonte au ciel quand on perd ce qu’on aime.

Il ne reste de nous qu’un cadavre vivant;

Le désespoir l’habite et le néant l’attend.

**

(Có nấm mồ nào bằng con tim và nỗi cô đơn nào như thế nầy!...

Và nếu không vấp ngă  ngay trên những đổ nát của chính ḿnh

Th́ con người làm sao có thể bước đi?

Tất cả đều qua đi và biến mất, tất cả như bóng ma trong tâm trí con  người…

Linh hồn về lại trời cao khi mất đi những ǵ ḿnh yêu.

Chỉ c̣n lại trong ta một xác chết biết đi;

Tuyệt vọng chiếm ngự con người và hư vô chờ đợi hắn.)

 

Hư vô! Đó phải chăng là từ cuối cùng dùng cho cảm thức bi quan của nhà thơ, như trong Rolla? Không, tâm hồn ông đă vươn lên, tư tưởng ông đă tự thanh hóa; và giữa những mặc khải mà đau khổ mang đến ông thoáng thấy bóng dáng của Đấng Tối Cao:

Tu respectes le mal fait par la Providence,

Tu le laisses passer et tu crois à ton Dieu

Quel qu’il soit, c’est le mien…

 

Như thế, trong thử thách phải hạ thấp đầu xuống, và uốn cong đầu gối.  Lời cuối của đoản thi là một lời của hy vọng và vĩnh cửu:

 

Tes os dans le cercueil vont tomber en poussière…

Mais non pas ton amour…

Ton âme est immortelle et va s’en souvenir.

**

(Xương trong quan tài của người sẽ đi vào cát bụi…

Nhưng t́nh yêu của nguời không bao giờ…

Linh hồn của người là bất diệt và sẽ nhớ măi t́nh yêu đó.)

 

Kế đó, vào năm 1837, ra đời La Nuit d’Octobre.  Tư tưởng của Musset tiếp tục theo chiều hướng của nó.  Ông cố tránh những kỷ niệm quá nồng thắm và đi đến sư b́nh yên tâm hồn bằng cách tự thuyết phục chính ḿnh rằng vạn vật là những ǵ đă được giả định sẳn bởi v́ Thượng Đế muốn như thế.  Đau khổ là một điều kiện cải thiện tinh thần:

 

Est-ce donc sans motif qu’agit la Providence?

Et crois-tu donc distrait le Dieu qui t’a frappé?...

L’homme est un apprenti, la douleur est son maître…

Pour vivre et pour sentir, l’homme a besoin des pleurs…

 

Tại sao lại phàn nàn?  Nàng Thơ (la Muse) hỏi ông như thế.

Et détester un mal qui t’a rendu meilleur?

 

Ở đây cũng như ở các phần trên, trong la Lettre à Lamartine, tư tưởng bi quan c̣n tồn đọng trong đáy tâm hồn của Musset đă hoà tan vào tư tưởng điều tốt và Thượng Đế.  Nhưng chính trong l’Espoir en Dieu sự tiến hóa tinh thần của nhà thơ mới hoàn tất và đạt tới đỉnh cao của nó (2/1838).  Tác giả của Les Nuits đă gạt bỏ những ưu tư có tính chất thuần túy con người và dục vọng: chắc chắn tâm hồn chưa có được sự b́nh yên hoàn toàn; nhưng nếu nó có vẻ nhiễu độngth́ chính nó bị ám ảnh bởi những ưu tư cao xa hơn và toàn bộ thẩm thấu bởi “tư tưởng cay đắng kia làm con người run sợ khi nh́n thấy vô biên.”    

 

… Malgré moi l’infini me tourmente,

Je n’y saurais songer sans crainte et sans espoir, etc.

…Ma raison révoltée

Essaie en vain de croire et mon cœur de douter.

 

Làm ǵ? Và trở thành cái ǵ?  Không thể chấp nhận những giáo điều hẹp ḥi của đức tin chính thống; không thể sống trong sự thờ ơ và trong chối bỏ: và đối với những cấu trúc bác học của chủ nghĩa duy triết lư (philosophisme), cuối cùng chúng đi về đâu?  Nếu chẳng phải đi đến hỗn độn và sụp đổ các hệ thống?  Điều có thật duy nhất, tóm lại, chính là tư tưởng Thiên Chúa Giáo:

Un immnense espérance a traversé la terre!

Malgré nous vers le ciel il faut lever les yeux.

Như thế chúng ta hăy nâng tâm hồn của chúng ta lên với Thượng Đế, khẩn thiết cầu ngài, đặt để nơi ngài niềm hy vọng của chúng ta: đó là kết luận của bài thơ, như trong la Letter à Lamartine:

Croyez-moi, la prière est un cri d’espérance!

Pour que Dieu nous réponde, adressons-nous à lui;

Il est juste, il est bon…

 

Con đường nào người ta đă đi qua từ khi có bài thơ của Rolla, trong đó không khí bi quan rất bao la, tuyệt vọng, vô phương giản lược!  Một đam mê lớn đi đến làm đảo lộn tâm hồn của chủ thể hoài nghi ấy; con tim của Musset đă từng rách nát tận cùng, và, với một lối hành văn giản dị thấm thía, những bài thơ trong Les Nuits diễn tả  một nỗi đau khổ vô phương cứu chửa.  Nhưng ngay cả đau khổ đó, có sâu xa và chân thật cách mấy đi nữa cũng trở nên một yếu tố cải thiện đối với ông, hay đúng hơn, một yếu tố phục sinh tinh thần (rénovation morale).  Tư tưởng bi quan nhạt nḥa và biến mất dần để cho con tim b́nh yên và tư duy t́m lại sự b́nh thản.  Rolla, chính là sự suy vong chán chường của kẻ không niềm tin rơi vào tự sát; La Lettre à Lamartine, chính là khẳng định sự bất diệt của linh hồn; l’Espoir en Dieu, chính là lời kêu gọi thân thiết đến Thượng Đế của những tín đồ Thiên Chúa Giáo.  Những rối rắm của những chối bỏ xưa cũ đă giải quyết xong.  Nhà thơ, nhờ vào hơi thở tôn giáo, vươn lên những đỉnh cao của trữ t́nh .  Triết lư của ông mang sắc thái của một sự cam đành hiền thục, với một tàn dư của hoài nghi.  Trong phương cách thể hiện niềm tin của ông, người ta vẫn c̣n đoán ra được một ít âu lo.  Nhưng “nếu cầu nguyện là một tiếng kêu hy vọng” th́ đó là một sức mạnh và nó mở ra cho chúng ta những an ủi lớn; c̣n ǵ hơn nữa?


 

Lương Tấn Lực