Trường Phái
Lăng Mạn trong Văn Học Pháp
Quelques Vues Générales sue
le Romantisme Français –
Allais Gustave
Phần III: Bi
Quan Ngạo Nghễ (Pessimisme Orgeuilleux)
Lương Tấn Lực
Licence d’Enseignement en
Littérature Française – Univiersité de Saïgon
Licence d’Enseignement en
Philosophie Occidentale – Université de Saïgon
Trên trái đất vong ân của
những người đă chết
Chúng ta đi chĩ để lại bóng ḿnh.
(Nous marcherons ainsi, ne
laissant que notre ombre
Sur cette terre ingrate ̣u
les morts ont passé)
|
Có một
h́nh thức bi quan khác có thể được gọi là “bi
quan ngạo nghễ - pessimisme orgueilleux”, và h́nh thức nầy
phát xuất từ Byron. Xin nhớ
rằng những sáng tác của Byron, xuất bản từ
1812-1822, tạo dựng giai đoạn chuyển tiếp giửa những tác phẩm cuối
cùng của Chateaubriand củng
như của Mme de Staël
và của những tác giả đích thực đánh dấu
khởi điểm của trường phái Lăng Mạn
Pháp.
|
Chúng
ta dễ nhận ra quá tŕnh chuyển tiếp hợp lư
từ bi quan René đến bi quan Byron. Trong khi dùng nội suy để
nghiên cứu chính ḿnh, người ta nhanh chóng nhận ra cái tôi của ḿnh như một đối
tượng nghiên cứu vô cùng hấp dẫn và hấp dẫn
hơn cả mọi đối tượng khác. Từ đó chỉ c̣n một
bước là tiến đến chỗ tự đồng
hoá ḿnh với một bản chất hoàn toàn khác biệt
với những bản chất khác, mang một yếu tính
thượng đẳng so với đại bộ phận
loài nguời và được trời ban cho - hay có khả
năng cảm nhận - những cảm ứng mà kẻ
khác không biết. Giả
định đó người ta t́m được nơi
rất nhiều nhà văn hay nhà thơ, từ Chateaubrian
đến Pierre De Lotti: tuy nhiên đó chẳng phải là là
cái ǵ hơn người mà chỉ là sự tự khâm
phục chính ḿnh.
Gắn
liền với xu hướng đặc biệt thiên
vị đối với chủ thể trí thức của
chính ḿnh là một tính khí bạo động, một cá tính
tự tôn và độc lập, không theo nghĩa đạo đức,
tôn giáo. Người ta hiểu
rằng một người như thế thường
đi đến chỗ suy nghĩ rằng tất cả
cái tôi của họ là
đương nhiên, được tạo hóa cho phép, có
quyền thỏa măn mọi dục vọng của ḿnh và
hành động đam mê của họ phải
được tự do phát triển. Và rồi người ta tổng
quát hóa; người ta tuyên bố, trên nguyên tắc, “dục
vọng là trên hết”; thỏa măn những dục vọng
“là một cái quyền”. Nhưng
nói một cái quyền th́ cũng chưa đủ; phải nói là “một bổn
phận”; v́ mọi người đều có bổn
phận phát triển toàn diện và tối đa cái tôi của ḿnh - một áp
dụng kỳ quặc của từ ‘bổn phận’ quư
phái kia vào những điều quái đản như thế.
Có người cho đó là quan điểm của Ibsen
và của những nhân vật trong truyện của ông. Nhưng các nhà văn lăng mạn
đến sau Byron (và trước Ibsen) đă biết
điều đó rồi và đă sáng tác theo hướng đó trong
những tác phẩm của ḿnh và cả trong đời
sống thực của một số người: đó là
trường phái Ibsen có trước Ibsen (Ibsenisme avant Ibsen).
Với
những ngụy biện như thế, người ta không
c̣n biết đến trở ngại nào cả, chẳng
cần quan tâm đến những nguyên tắc đạo
đức, văn hóa, tôn giáo, đă được xây
dựng nên bởi những kẻ thù của dục
vọng. Đạo
đức và tôn giáo, những luật lệ liên quan
đến siêu việt và con người, những trách
nhiệm xă hội, những trách nhiệm gia đ́nh, trách
nhiệm hôn nhân...c̣n quan trọng ǵ? Càng phá vỡ
được nhiều chướng ngại càng
tốt. Nguyên tắc hành
xử được tuyên bố là sự nổi loạn chống
lại những ǵ ngán trở.
Người ta truyền bá sự nhạo báng
đối với xă hội, luân lư và luật pháp, và xúc
phạm Thượng Đế.
Khi những khó khăn, thất vọng, phiền
muộn, đau khổ tinh thần xảy đến,
chủ thể oán trách
định mệnh. Chủ
thể tự nói ḿnh là nạn nhân của định
mệnh đó. Thay v́ can
đảm phấn đấu để vượt qua
thử thách, thay v́ cam chịu, một h́nh thức khác
của can đảm, chủ thể lại nổi
loạn và ngoan cố. Và
những tư tưởng nổi loạn kia từ đâu đến,
nếu không phải từ một ngạo nghễ to
lớn? Trong thâm tâm, chủ
thể tự bảo: “Sao
chuyện như thế lại có thể xảy ra cho
một người như tôi được!” Luôn luôn chính sự khâm phục, yêu
mến và tôn thời cái tôi đó trở về với
chủ thể dưới h́nh thức bi quan. Đây không c̣n là vấn đề
ích kỷ tầm thường; mà là một cái ǵ qúy phái hơn,
cao cả hơn, đ̣i hỏi một tên gọi
đặc biệt; cuối cùng đó là chủ nghĩa duy ngă (égotisme),
như chúng ta nói ngày nay, nhưng là tự đại siêu
việt và đam mê.
Những
điều chúng ta vừa tŕnh bày đại để áp
dụng cho Byron. Bản
chất hoàn toàn đam mê, cá tính bạo động,
đầu óc hung hăng, luôn luôn chờ đón những
cảm xúc thái quá, ông chỉ Thỏa mản trong một
lối sống hiếu động, điên loạn, buông
thả. Muốn hiểu rơ
Byron, phải đọc tài liệu nghiên cứu mà Taine đă
dành cho ông trong cuốn Histoire de
la Littérature Anglaise, tập 4.
“Đam mê hiện tại giáng
xuống hồn ông như một cơn băo, đưa ông
lên, kéo ông đến chỗ khinh suất và đồng
thời cũng đưa ông đến sáng tạo. Nhật kư, thư từ, tất
cả bản văn ngoài nguồn của ông tựa như
run rẩy tâm hồn, giận dữ, hứng khởi.”
Taine t́m thấy nơi ông “cả một ngọn
đuốc dục vọng man rợ:…tính t́nh đen
tối, tưởng tượng táo bạo, ngạo
nghễ không kèm chế, thích nguy hiểm, đánh nhau, cao
hứng không đâu.”
Sự
ngạo nghễ không kiềm chế và thái quá đó
đưa ông đến những hành động liều
lĩnh quái lạ. Ông chứng
tỏ một sự khinh khi công luận, tuyên chiến
với xă hội thượng lưu Anh, với những
tập tục, sự nghiêm minh đạo đức
giả của xă hội đó, công kích những nhà văn
đương thời của ông và khoác lác ca ngợi
điều xấu. Bài thơ Childe Harold đă khiến Walter
Scott đưa ra sự phán xét nghiêm khắc: “Bài
thơ mang giá trị lớn, nhưng nó không mang lại
một dư luận tốt cả về t́nh cảm
lẫn đạo đức đối với tác giả. Điều
xấu lẽ ra phải khiêm tốn hơn đôi chút.”
Không
có ǵ riêng tư hơn là thơ của ông: Ông chỉ mơ mộng về
chính ông và ông cũng chỉ thấy chính ông khắp mọi
nơi… Đó là những phiền muộn, nổi loạn,
những chuyến du hành mà ông đă đưa vào thơ,
không màn chỉnh trang hay sắp xếp lại. Tất cả những nhân vật
mà ông dàn dựng đều được vẽ theo chính
ông. Tựu trung, ông chỉ
dựng lên có một nhân vật mà thôi: Childe Harold, Lara, le Giaour, le Corsaire,
Manfred, Sardanapale, Caïn, Tasse, Dante vả các nhân
vật khác c̣n lại vẫn luôn luôn là một người,
được biểu hiện dưới những bộ
quần áo khác nhau mà thôi. Những
người đương thời của ông không lầm
lẫn về điều nầy.
Walter Scott đă nhận thức được
điều đó trong Childe
Harold. Một lần khác,
người ta đồn rằng đó chính là Byron, Conrad
thực sự, Corsaire thực sự. Và khi đề cập chuyện
nầy, Byron thêm rằng “quả
người ta đôi khi đoán gần đúng sự
thực, nhưng không bao giờ đoán đúng sự
thực.”
Hăy
thử đọc Le Corsaire, người ta sẽ thấy một
số đoạn văn - chẳng hạn khi Byron mô tả
chân dung đạo đức của Conrad – trong đó
những nét tiêu biểu nhất có thể áp dụng cho chính
thi sỷ. Taine không trích
dẫn những đoạn văn đó ra. Hăy xem thơ đoạn I,
phần mở đầu đoản khúc số XI: “Thiên nhiên đă không định
đoạt số mệnh của Conrad…”, và thơ đoạn II, đoản khúc
X, trong đó thi sỷ tŕnh diện Conrad bị cầm tù sau
một trận chiến đẩm máu khiến y bị
thương, bị nhốt trong một tháp canh, một ḿnh
với sự ngạo nghễ và những giây xích. C̣n về
những ǵ đang xảy ra trong tâm khảm của Conrad,
Byron mô tả ra sao? Ông minh
họa tâm hồn nhân vật một cách rất sinh
động, tràn ngập những kỷ niệm, minh
họa trái tim con người bị phơi bày với
những đau khổ tràn dâng, cho đến khi sự
Ngạo Nghễ, vừa tỉnh thức, giật lấy
gương soi của tâm hồn và đập nát nó. Vâng, sự ngạo nghễ có
thể cướp đi tất cả những thứ
đó, và ḷng can đảm có
thể xem thường những thứ đó, - xem
thường tất cả, - trước khi và bên kia cái
chết ghê tởm nhất.
Đó
chính là một nét hoàn toàn cá nhân.
Ngôn ngữ tràn đầy nghị lực dữ
dội đó, sức mạnh siêu đẳng đó
vượt trên những ǵ người ta có thể gán cho
sự can đảm, sự khẳng định kiêu hănh của ngạo nghễ đó
cơ hồ như có thể trấn áp được
cả ư thức, tất cả chẳng phải đă
đánh động tâm hồn của thi sỷ? Và đừng quên câu phương
ngôn, “những kẻ có ḷng can
đảm bừng cháy và bất kham chấp nhận đau
khổ và nổi loạn; chỉ những kẻ yếu hèn
mới hối hận.”
Đó phải chẳng là trạng thái tinh thần
của Byron?
Tóm
lại, điều mà ông luôn luôn tŕnh bày với chúng ta chính
là bức tranh của một ư chí con người nổi
loạn và đứng lên trực diện với kẻ thù
của ḿnh: Xă hội,
định mệnh. Luôn luôn
chúng ta có trước mặt h́nh ảnh một con
người tự tuyên bố là nạn nhân của
những bất công, không có được những ǵ ḿnh
xứng đáng có hay những ǵ ḿnh mơ ước,
một con người với những hy vọng bị
chối bỏ, những ước muốn không
được thỏa măn, và luôn luôn mang trong hồn
cảm thức thiếu thốn.
Từ đó, trong con người ấy, có một cái
ǵ cay đắng, một nuối tiếc khôn nguôi, một
tức tối âm thầm đối trước mọi
người và mọi vật, một cảm tính u ám,
một nếp tưởng tượng hướng
đến đen tối, cuối cùng một sự nổi
loạn triền miên đối với cuộc đời
đang có trước mặt.
Đó chính là thái độ thường thấy trong
những nhân vật của Byron.
Bài thơ Manfred của Byron và Fraust của Gœthe.
Với
những nét tổng quát lớn, chúng ta đă phác họa
khuôn mặt của các nhân vật của Byron. Nhưng nhân vật nổi
tiếng nhất trong số đó, nhân vật biểu
tượng và hiện thân đầy đủ nhất
thiên tài của nhà thơ, chính là Manfred.
Taine
gọi Manfred là người
em sinh đôi của Fraust
của Gœthe, chỉ muốn nêu lên sự tương
đồng về tư tưởng, quan niệm, phạm
vi quan sát giữa hai bài thơ; v́ có một điểm khác
nhau về ngày tháng đáng lưu ư: Fraust được xuất bản năm 1807 và Manfred năm 1817. Ngoài ra, Byron biết bài thơ
của Gœthe; ông không thể đọc bài thơ đó trong
nguyên bản v́ không biết tiếng Đức; nhưng
một người bạn của ông đă đọc và
dịch phần lớn bài thơ đó cho ông: chính ông đă
kể lại việc nầy.
Ông rất say mê bài thơ được đọc và
chịu ảnh hưởng của nó.
Khi
thấy rằng Byron đă sử dụng bài thơ Fraust của ḿnh, đồng
thời nhận thấy Byron đă biến bài thơ đó
thành thơ của ông, Gœthe bèn nghĩ cách đối phó, theo
phương cách riêng, với mục đích riêng của ông,
sao cho không bài thơ nào trong số hai bài giống nhau
nữa… Tác phẩm được đổi mới
lại toàn bộ.
Ở
đây chúng ta không đưa ra một so sánh giữa hai tác
phẩm nổi tiếng kia.
Vấn đề nghiên cứu đó cần để
dành cho những người có thẩm quyền, những
chuyên viên thông thạo về văn học Phương
Bắc. Nhưng trong tài liệu của Taine về
đề tài nầy có mười lăm trang đặc
biệt đáng lưu ư và chúng ta cần nhanh chóng tóm lược
lại những ư chính.
Fraust
là một trong những tác phẩm tầm vóc nhất và chính
thống nhất của thế kỷ. Đó là một kiệt tác,
dựa trên một giai thoại trung cổ, giai thoại
của bác học Fraust. Nhà
thơ phục dựng lại ở đó những phong
tục cổ ngày xưa, và dàn dựng lên những “nhân
vật trên trời - personnages
célestes”, duy tŕ ở họ
những phong cách qui ước, theo những giáo
điều của Kinh Thánh, tương tự như
những bí mật cổ đại. Giai thoại trung cổ khai triển ở đây xuyên qua
những màn sáng tạo từ óc tưởng tượng
phong phú của nhà thơ. Bên
cạnh bi hài kịch nhân gian, yếu tố làm nền
tảng cho sự thống nhất của tác phẩm,
người ta bắt gặp những đoản thi
tuyệt diệu hay biểu tượng. Tóm lại đó là một tác
phẩm phức tạp, xuất chúng, lạ thường,
đúng hơn là khá bí ẩn, trong đó người ta t́m
thấy cùng một lúc thiên tài thượng đẳng
của một nhà thơ, một kịch tác gia, và
đồng thời tinh thần của một triết gia
bị dằn vặt giữa những tin tưởng
cổ xưa và chủ nghĩa hoài nghi hiện
đại. Bài thơ nầy
tŕnh bày cho chúng ta kết quả những suy tư của
Gœthe về mọi vấn đề, và đồng thời
nó khiến nhiều người Suy ngẫm.
Nếu
Gœthe phục dựng lại thế giới ngày xưa th́
đó là tư cách của sử gia chứ không phải
tư cách tín đồ. Ông chỉ
theo đạo Thiên Chúa v́ kỷ niệm và v́ thơ…
Triết gia ló dạng phía sau người viết
truyện… Những nhân vật siêu nhiên kia là ai? , Thượng Đế kia,
Mephistophéles kia, và những thiên thần kia? Phải chăng đó là những
trừu tượng hay những con người? Đó là cách khai triển của
toàn bộ bài thơ, hành động và nhân vật, con người và
thần linh, thượng cổ và trung cổ, tổng
thể và chi tiết, luôn luôn nằm trên biên thùy của hai
thế giới: một vật lư hữu h́nh, một
trừu tượng vô h́nh.
Như là âm vang trong thiên nhiên vũ trụ, tác phẩm
của ông tương tự như một bản
đồng ca khổng lồ trong đó những thần
linh, con người, quá khứ, hiện tại, tất
cả chiều dài lịch sử, tất cả những
điều kiện của đời sống, tất
cả những trật tự của hiện hữu
đều hợp đồng với nhau.
Âm
vang của thiên nhiên vũ trụ theo Taine cũng chính là bài
thơ vũ trụ: những diễn tả đó vạch rơ rằng Fraust là lư lịch trích ngang
của đời sống tinh thần và đạo
đức của Gœthe và của tư duy của ông trên
mọi vấn đề chiếm cứ và tác động tinh
thần con người.
Manfest,
ngược lại, theo Taine là bài thơ của con
người; đó là vở kịch của con
người; và chúng ta t́m lại ở đó cũng như
trong những bài thơ khác của Byron vẫn cùng nhân
vật, luôn luôn được minh họa theo cùng một
biểu mẫu. Chúng ta cũng
nhận ra ở đó người Anh với những
đặc điểm sắc tộc Anh. Những ǵ mà toàn thể văn
minh đă duy nhất phát triển nơi người Anh,
đó chính là nghị lực và những chức năng
thực dụng. Người
Anh tận sức trong nỗ lực, cương quyết
trong phản kháng, kiên định trong hành động, và
nhất là lánh xa suy đoán thuần túy, cảm thông dao
động và nghệ thuật vị nghệ thuật.
Với họ, tự do siêu h́nh đă chết dưới
những ưu tư duy lợi, và mơ mộng duy thần
chết dưới những ưu tư đạo
đức.
Thêm vào
đó, ở đây cũng như những nơi khác, chỉ
có một nhân vật, y hệt như các nơi khác. Con người, thần linh, thiên
nhiên, tất cả thế giới đang thay đổi
với thiên h́nh vạn trạng của Gœthe đều tan
biến hết. Chỉ c̣n nhà
thơ là tồn tại, được thể hiện
trong nhân vật của ḿnh. Tuyệt đối khép kín trong
chính ḿnh, nhà thơ chỉ có thể nh́n thấy chính ḿnh mà
thôi.
Nhưng
cũng phải nói rằng có nhiều nét vĩ đại
trong nhân vật Manfred đó.
Sự khác biệt thế nào so với Fraust, nhân
vật tầm thường, yếu đuối, thiếu bản
lĩỉnh, tâm hồn mất đi ư chí và, trong khi vùi
đầu vào công việc, đă mất hết ư nghĩa
của đời sống thực tế và sức lực
hành động? Fraust đó, phải chăng là một nhân
vật buồn bă, xuyên suốt tác phẩm, nói năng,
sợ hăi, ưu tư về những biến đổi
cảm xúc của ḿnh, và lang thang tản bộ!.. Ư chí
của y là những ư chí yếu ớt, những tư
tưởng của y là những hoài băo và mơ mộng. Một tâm hồn thi sỷ trong
một khối óc bác học, cả hai đều không thích
hợp cho hành động.
So
với Fraust, Manfred khác biệt biết bao nhiêu! Đó là một người
đàn ông, nghĩa là một con người có cá tính,
cương nghị, hành động. Đó là một lănh chúa,
đầy can đảm và gan dạ. Hăy nghe y tự mô tả ḿnh: “Từ
tấm bé, tâm hồn tôi đă không đi chung với tâm
hồn mọi người… Những thú vui của tôi,
những đau khổ của tôi, những dục vọng
của tôi, những chức năng của tôi biến tôi
thành kẻ xa lạ trong đám họ…Tôi không thể nào
khống chế và khắc phục bản tính của tôi
được…Thú vui của tôi nằm trong sự cô
đơn, để hít thở không khí khó thở trên
đỉnh giá băng của non cao.”
Dès
ma jeunesse, mon âme n’a point marché avec les âmes des hommes…Mes joies, mes
peines, mes passions, mes facultés me faisaient étranger dans leur bande…Je ne
pouvais point dompter, et plier ma nature…Ma joie était dans la solitude, pour
respirer l’air difficile de la cime glacée des montagnes.
Phải
đọc trong bản dịch của Taine toàn bộ
đoản văn kiệt xuất đó, nội dung
chủ yếu là biểu hiện sự kiêu căng ngạo
nghễ của Manfred đối với phần c̣n lại
của nhân loại: “Đó là những thời gian
thư dăn của tôi - mục tiêu chủ yếu là
được ở một ḿnh; v́ nếu những sinh
vật đồng loại với tôi – tôi ghê tởm
điều nầy - gặp tôi trên lối tôi đi th́ tôi
tự cảm thấy bị giáng cấp và rơi xuống
bằng họ, và tôi chỉ c̣n là họ và tôi chỉ c̣n là
đất sét.”
Nhưng
bức tranh kia chưa đầy đủ; c̣n phải ghi
nhận thêm những khuôn mặt mà t́nh yêu đă tạo nên
trong một tâm hồn như thế. Manfred đă yêu, với một t́nh
yêu nồng nàn và sôi động.
Người mà y yêu đă chết, và cuộc sống
đối với y trở nên không chấp nhận
được. “Nỗi cô đơn của tôi
không c̣n là cô đơn nữa;
nó được đong đầy bằng những
căm giận. Tôi nghiến
răng,…tôi tự nguyền rủa tôi…Bàn tay lạnh
buốt của một ác quỷ tàn nhẫn,…tương
tự như một ngọn sóng đáo hoàn, đă quẳng
tôi vào lại trong hố sâu thăm thẳm của hồn
tôi. Tôi sống trong thất vọng, và tôi sống ở đó,
tôi sống măi ở đó.”
Những
trích đoạn trên cho phép chúng ta có được về
nhân vật Manfred đó một ư tưởng khá rơ ràng. Nói chung, nơi y cũng như
nơi những nhân vật khác của Byron, chúng ta t́m
lại những nét chủ yếu giống nhau về cá
tính: một tâm hồn hiếu
động, mang những đam mê mănh liệt, mà một khi
thất vọng hay thương tổn, thường quay
ngược về chính ḿnh, t́m sự cô đơn và
bằng ḷng ở đó.
Một trí tưởng tượng khích động và
hướng về bóng tối, ám ảnh bởi những
tư tưởng cay đắng và u ám; một ngạo
nghễ bất kham, tự đặt ḿnh ra ngoài và lên trên kẻ khác; một ư chí
kiên cường và liều lĩnh, thích Nổi loạn trước
những trở lực, về xă hội cũng như
đạo đức, lồng lên đe dọa và nguyền
rủa số phận. Tóm
lại, đó luôn luôn là chủ nghĩa duy ngă (égotisme) mà
chúng ta đă tŕnh bày, chủ nghĩa duy ngă siêu nhân, lạ
lùng, được đẩy đến cực
điểm, chắc chắn không thiếu đi cái vĩ
đại của nó, nhưng nó chỉ thấy có chính ḿnh
trong tất cả vũ trụ và bằng ḷng trong đau
khổ tuyệt vọng và sự Nổi loạn ngạo
nghễ của ḿnh. Như
Taine nhận định một cách hùng hồn, đó luôn
luôn là cái tôi, cái tôi bất khuất, tự măn với chính
ḿnh, không có ǵ có thể khống chế được, ác
quỷ cũng như con người, tác giả độc
nhất của điều thiện cũng như
điều ác, một loại thần thánh đau khổ và
ngă gục, nhưng luôn luôn là thần thánh dưới
những da thịt đầy thương tích, xuyên qua
nỗi đày đọa nhọc nhằn của số
phận…
Lord Byron
có một cuối đời rất quư phái và rất
đẹp. Ông chết tại
Missolonghi v́ đấu tranh cho nền độc lập Hy
Lạp (1824) và đó là cái chết của một
người anh hùng. Một
cuối đời như vậy chuộc lại bao nhiêu
lỗi lầm trong thuở sinh tiền của ông. Nhưng những tác phẩm
của ông đă gây ra bao nhiêu điều xấu. Cũng như Nouvelle Heloïse, Werther và
Réne, thơ của Byron thành
công rất lớn.
Người ta say mê đọc và mô phỏng. Những nhân vật của ông
như Childe Harold, Conrad, Lara, Manfred đă có những mô
phỏng trong văn học lăng mạn Pháp: chỉ cần trích dẫn Hernani,
Antony, Chatterton…
Nói chung
chúng ta đă điểm quan những giai đoạn khác
nhau của văn học khi xuất hiện những tác
phẩm thành công. Nhà văn trở thành người yêu
chuộng của quần chúng; và tiếp theo là một cao
trào tư tưởng, quan điểm, sở thích, biểu
hiện những ǵ người ta gọi là “ảnh
hưởng” của nhà thơ hay nhà văn. “Thời thượng - mode” xen
vào; nhà thơ ấy, nhà văn ấy trở thành “thời
thượng – à la mode”. Nhóm
từ ấy có thể là vô nghĩa, nhưng rất biểu
hiện: nó cung ứng cho chúng ta một khái niệm rơ ràng
vể hiện tượng vô thức, tự phát, vô
luận trong phong trào thời trang của quần chúng
đó. Người ta không có
sự đánh giá của cá nhân ḿnh; người ta không
thể tự ḿnh phán xét; nhưng người ta đọc
qua một bài báo trong đó nhà phê b́nh nổi tiếng
của thời đại đưa ra những thẩm
định tác phẩm và thế là từ nơi nầy qua
nơi khác người ta
cứ làm theo mọi người;
người ta bám theo cỗ xe thành công, ca ngợi, hô
hào, ngất xỉu, nhưng chẳng biết tại sao,
nếu chẳng phải v́ lư do dễ hiểu là “tất
cả mọi người’ đều đă làm như
thế và nhất định phải “làm giống như
mọi người”: thế
mới hợp thời trang.
Đấy chính là sự chiến thắng đẹp
đẽ nhất của hành vi đồng dạng mà ngày
nay chúng ta gọi là “snobisme -
thời thượng”. Ngày
nay chúng ta thấy xuất hiện phong trào Tolstoïsme, Ibsénisme;
đến thời kỳ lăng mạn, thời thượng
đó là Byronisme.
Lương
Tấn Lực