Kỷ Niệm 50
Năm Ngày Albert Camus Qua Đời
(7/11/1913 – 04/01/1960)
Lương Tấn Lực
Theo Olivier Mony trong “Albert Camus, l’Home Intranquille”
Và một số tài liệu khác
"À n'importe quel coin de rue le sentiment de l'absurdité peut faire grève tout homme au visage. "
Sơ lược tiểu sử
Albert Camus sinh tại
Mondovi, Algerie, ngày 7/11/1913. Ông thường tìm hiểu bản
chất đôi khi vô nghĩa của cuộc sống. Một năm sau khi Camus ra đời,
cha ông, một nông dân nghèo gốc Alsace, tử trận tại
Âu Châu trong trận đánh tại
Marne. Mẹ ông đưa gia đình
sang quận Belcourt tại Alger, nơi họ sinh sống với
bà ngoại của Camus, cũng là một hóa phụ.
Sau khi tạm nghỉ vì
bệnh lao, Camus tiếp tục học tại Đại học
Alger. Trong thời gian nầy,
Camus sinh sống bằng nhiều công việc khác nhau, kể
cả dạy kèm, làm việc cho Viện Khí Tượng, và
bán phụ tùng xe hơi. Cũng
trong thời gian nầy, cùng với một số trí thức
cánh tả, ông đã thành lập Nhà Hát Lao Động tại
Alger. Kinh nghiệm đầu
tiên của Camus về kịch nghệ xảy đến
khi nhóm nầy cho ra một “kịch bản tập thể”
mang tên, “Révolt dans Les Asturies (Bạo
Động tại Asturies)”.
Sau khi nhận được
văn bằng triết học, Camus di cư sang Pháp và làm báo. Năm 1938, ông làm việc cho một tờ báo
thiên tả, Alger-Républicain, với
tư cách luân phiên là phó biên tập, phóng viên chính trị và xã
hội, trưởng ban biên khảo, và điểm sách. Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến
bùng nổ, Camus sữ dụng tài văn chương của
mình để hổ trợ Cuộc Kháng Chiến Pháp, đảm
trách ban biên tập tờ Combat,
một tờ báo bí mật quan trọng. Tuy nhiên, sau chiến tranh, ông từ
bỏ chính trị và nghề báo để chuyên lo viết sách. Sau đó ông trở nên nổi tiếng
thế giới với những tác phẩm như L’Étranger (1942), La Peste (1948), L’Homme
Révolté (1954), Le Mythe de Sisyphe (1942).
Năm
1957 ông nhận giải thưởng Nobel về văn chương
“căn cứ trên sáng tác văn học quan trọng của ông,
một thành quả soi sáng những vấn đề của
lương tâm nhân loại trong thời đại chúng ta với
sự kiên định tinh tường”, không phải trên tác
phẩm La Chute được
xuất bản một năm trước đó, nhưng trên
lập trường phản đối án tử hình trong tiểu
luận Réflections sur La Guillotine.
Khi
nói chuyện với các sinh viên Đại Học Stockholm,
Camus khẳng định không dính dáng gì trong vấn đề
Algerie và cho biết ông quan ngại những gì có thể xảy
ra cho mẹ ông đang sống tại Algerie. Việc nầy
khiến những người trí thức cánh tả Pháp khai
trừ Camus quyết liệt hơn nữa.
Ngày 4/1/1960, Camus chết
trong một tai nạn xe hơi trong khi từ Stockholm về lại Paris cùng
với ngưòi bạn và cũng là nhà xuất bản Michel
Gallimard. Bấy giờ ông mới
40 tuổi. Mới đó thôi, năm
1958, ông đã viết, “Tôi vẫn còn tin rằng hãy còn nhiều
việc chưa bắt đầu”.
Bên lề tai nạn nầy, cũng xin thêm rằng
Camus rất ghét đi xe hơi và ông đã dự định
trở về Paris bằng tàu lửa nhưng sau đó
Gallimard thuyết phục ông thay đổi ý định. Người ta tìm thấy trong túi áo
của ông nửa phần vé tàu lửa khứ hồi không sữ
dụng.
Tác phẩm tiêu biểu
L’Etranger, La Peste, La Chute, La Mort Heureuse, Le
Premier Homme, La Femme Adultère, L’Homme Révolté, Le Mythe de Sisyphe, Le Renégat ou Un
Esprit Confus, Les Muets, L’Hôte, Carmets, Les Justes, Le Malentendu, L’État de
Siège…
Mặc dù nổi tiếng
chủ yếu nhờ vào các tiểu thuyết và các tác phẩm
triết học, Camus cũng là một người của
kịch nghệ. Nhiều lần
ông từng là kịch sỹ sân khấu, giám đốc nhà hát,
nhà viết kịch, và dịch giả sân khấu. Chủ đề các vở kịch
của Camus xoay quanh sự nhận định của con
người về bản chất phi lý (l’Absurde) của vũ
trụ, và sự mâu thuẩn tất yếu giửa nhận
thức nầy với sự khát khao tìm hiểu của con
người. Tuy nhiên phương
thức biểu hiện bản chất phi lý đó rất
khác biệt với điều được gọi là “sân
khấu phi lý” của những nhà viết kịch như
Ionesco hay Beckett. Cũng như
Sartre, Camus thích những nhân vật có khả năng không những
cảm nhận sự đau khổ của mình nhưng còn
diển tả được nổi đau khổ đó một
cách rõ ràng.
L’Étranger (1942). Đây có thể là tác phẩm
được biết đến nhiều nhất của
ông, và chủ đề then chốt của triết học
thế kỷ hai mươi.
Chủ đề và hình thức thường
được trích dẩn như là những ví dụ của
Thuyết Hiện Sinh, mặc dù Camus không tự xem mình là một
triết gia Hiện Sinh. Thực
tế, nội dung tác phẩm đề cập đến
nhiều trường phái triết học khác nhau, bao gồm
thuyết phi lý (absurdisme), cũng như thuyết duy thần
(athéisme), tất định thuyết (determinisme), thuyết
hư vô (nihilisme), và thuyết khắc kỷ (stoisme). Meursault, nhân vật chính trong truyện,
tượng trưng cho con người như một nạn
nhân buồn nôn của bản chất phi lý của tập
quán. Meursault là một ngưòi
Pháp được mô tả như một kẻ rối loạn
tình cảm, bẩm sinh thụ động và thác loạn. Nhân vật nầy dường như
vô cớ giết chết một người A Rập ở
Alger. Tại tòa án, sự bình
thản và thụ động của Meursault được
luật sư buộc tội ghi nhận như chứng cớ
cho thấy anh ta không hối hận hay tôi lỗi, điều
nầy khiến luật sư càng lưu tâm về việc
Meursault không thể hay không muốn khóc trong đám tang của
mẹ y, lưu tâm nhiều hơn so với thái độ của
y trong lần giết người nầy. Meursault cho biết y chẳng bao giờ
cảm thấy hối hận hay cảm xúc nào đối với
bất cứ hành động nào của y trong đời. Luật sư buộc tội gắt
gao lên án Meursault đến độ cho rằng Meursault phải
là một con ác quỷ không linh hồn, không biết ăn năn
và như thế y chĩ đáng tội chết để
đềnh tội. Mặc dù
luật sư biện hộ bênh vực cho y và sau nầy có
nói với Meursault rằng ông ta hy vọng phán quyết sẽ
nhẹ, Meursault hốt hoảng khi quan tòa tuyên bố phán quyết: y sẽ bị chặt đầu
trước công chúng. Trong tù,
trong khi chờ hành quyết bằng máy chém, Meursault gặp một
linh mục, nhưng từ chối cơ hội đề
nghị nhằm quay về với Chúa, giải thích rằng
đề nghi đó là một lảng phí thời gian. Mặc dù vị linh mục cố
tình ra sức đưa Meursault ra khỏi lối suy nghĩ
vô thần của y, cuối cùng Meursault giận dữ hành
hung ông ta, sém làm cho ông bị thương. Meursault cuối cùng nhận thức
được sự thờ ơ của vũ trụ
đối với nhân loại (thỏa hiệp với sự
hành quyết của y): “Cơ
hồ như cơn giận dữ mù quáng đó đã rửa
sạch tôi, xua đi niềm hy vọng. Lần đầu tiên đêm đó
chan hòa sao sáng, tôi mở rộng linh hồn đón nhận sự
thờ ơ của thế giới. Khi nhận ra thế giới ấy
rất giống tôi - rất giống anh tôi, quả như vậy
– tôi cảm thấy mình đã hạnh phúc và tôi hạnh phúc
thêm một lần nữa.
Để mọi điều trọn vẹn, để
cảm thấy bớt cô đơn, tôi chĩ phải ước
mong có đông đảo người đến xem cuộc
hành quyết của tôi và họ sẽ chào tôi với những
tiếng la hét căm thù.
Meursault không ý thức
được sự phi lý trong sự tồn tại của
con người, mặc dù sự phi lý đó chi phối những
hành động của y. Thực
tế duy nhất chính là những kinh nghiệm vật lý của
y, cho nên y giết người Ả Rập như phản
xạ trước những ảnh hưởng vật lý của
ánh nắng mặt trời vào mắt y, khi y xông đến
đối phương trên bờ biển chói chan ánh nắng.
Việc giết chết
người Ả Rập tự nó là vô nghĩa - chẳng
qua chĩ là một vụ việc mới xảy ra cho
Meursault. Cái ý nghĩa của câu
chuyện nằm trong sự nội suy cưởng chế của
Meursault về cuộc đời của mình – và về ý nghĩa
của cuộc đời đó – trong khi đối mặt
với cái chết cận kề bằng hành quyết theo pháp
luật. Chĩ trong tòa án và
trong cái chết Meursault mới nhận thức được
sự hữu hạn và trách nhiệm đối với cuộc
đời của mình.
Trên bề mặt, L’Étranger trông có vẻ như một
tác phẩm cực kỳ đơn sơ mặc dù
được biên soạn và dàn dựng kỷ lưởng. Thực tế, đó là một sáng
tác súc tích và phong phú, mang đầy ý nghĩa bên trong cùng những
phẩm chất qui phạm. Nếu
muốn phân tích đầy đủ ý nghĩa và hình thức
củng như những tương quan giửa ý nghĩa và
hình thức đó trong L’Étranger
thí có lẽ phải cần một cuốn sách tầm cở
ít nhất bằng chính cuốn tiểu thuyết.
Le Mythe de Sisyphe (1942). Nội dung diển tả quan niệm
của Camus về bản chất phi lý của vũ trụ
và sự chấp nhận bản chất đó với sự
vắng bóng hòan toàn của hy vọng - một hiện
tượng khác hẵn với thất vọng - , một sự
từ chối triền miên – khác với thối thác - , và một
sự bất mản có ý thức. Đó là sự phù phiếm của
con người khi tìm kiếm ý nghĩa, thống nhất và
minh bạch đối trước một thế giới
bất khả tri không có Thượng Đế, không có chân
lý hay giá trị vĩnh cửu.
Nhận thức được phi lý có đòi hỏi
phải tự sát? Camus trả
lời, “Không, nó đòi hỏi
phải nổi loạn.” Chương
cuối cùng của tác phẩm so sánh sự phi lý của cuộc
sống với hoàn cảnh của Sisyphe, một nhân vật
trong thần thoại Hy Lạp bị buộc phải lặp
đi lặp lại bất tận một nhiệm vụ
vô nghĩa, đó là đẩy một tảng đá lên đỉnh
núi, chĩ để xem nó lăn xuống trở lại.
Ông bắt đầu mô
tả hoàn cảnh phi lý: phần
lớn cuộc sống của chúng ta được xây dựng
trên hy vọng vào ngày mai; nhưng ngày mai thì lại đưa
chúng ta gần hơn với cái chết và là kẻ thù tối
hậu của chúng ta. Con
người sống như không hề hay biết về cái
chết tất yếu. Một
khi lột bỏ hết những mơ mộng thông thường,
thế giới chĩ là một chốn xa lạ, kỳ quặc,
và phi nhân. Không thể có
được một nhận thức thực sự; lý trí
cũng như khoa học không thể giải thích thế giới: những câu chuyện họ đưa
ra chung quy chĩ là những trừu tượng vô nghĩa,
những ẩn dụ mà thôi.
Thế giới tự nó không phi lý, cũng như tư
duy con người tự nó không phi lý: sự phi lý xuất phát từ khi
nhu cầu hiểu biết của con người gặp phải
sự bất khả tri của thế giới, khi niềm
khao khát của chúng ta về tuyệt đối và thống
nhất gặp phải sự bất lực giản lược
thế giới nầy vào một nguyên tắc hữu lý và túc
lý. Ông cũng đề cập
đến một số triết lý muốn mô tả và nổ
lực truy cứu cảm thức phi lý nầy, như của
Heidegger, Jasper, Shestov, Kierkegaard, và Husserl. Ông cho biết, tất cả những
triết lý nầy đều đưa đến sự
“tự sát triết học” vì những kết luận mâu
thuẩn với lập trường ban đầu về bản
chất phi lý - hoặc từ bỏ lý trí và quay về với
Thượng Đế (như trường hợp của
Kierkegaard va Shestov), hoặc nâng lý trí lên và cuối cùng đạt
đến thực thể thường hằng của
Platon và một thượng đế trừu tượng
(như trường hợp của Husserl). Muốn quan niệm đứng
đắn về phi lý phải nhìn nhận sự mâu thuẩn
giửa khao khát lý trí con người và thế giới bất
khả tri. Như thế, tự
sát cũng phải được loại bỏ: không có con người thì phi lý cũng
không thể có. Sự mâu thuẩn
nhất thiết phải có; lý trí và những giới hạn
của nó phải được nhìn nhận, không hy vọng
hảo huyền. Tuy nhiên, phi lý
không bao giờ có thể được chấp nhận: nó
đòi hỏi con người phải thường xuyên
đối diện, thường xuyên nổi loạn. Đối diện với bản
chất phi lý của thế giới có nghĩa là đối
diện với tất cả những gì thế giới bất
khả tri cung ứng. Khi cuộc
sống không có ý nghĩa thì không có tiêu chuẩn giá trị.
“Điều quan trọng không phải là sống
tốt nhất nhưng là sống nhiều nhất.” “Nhìn
nhận sự thật sẽ chiến thắng
được nó. Sisyphe,
giống như người phi lý, tiếp tục
đẩy tảng đá. Camus
cho rằng khi nhận ra sự phù phiếm trong nhiệm
vụ của mình và sự tất yếu của
định mệnh, Sisyphe được giải thoát
để nhận thức tính chất phi lý trong hoàn
cảnh của mình và đạt đến tình trạng
bằng lòng chấp nhận.”
L’Homme Révolté (1951). Đây là một
tiểu luận dày bằng một cuốn sách bình thường,
đề cập đến phương diện siêu hình và
lịch sử của quá trình
phát triển hiện tượng nổi loạn và cách mạng
trong các xã hội, nhất là Tây Âu. Camus liên lệ nhiều
nhà văn và nghệ sỹ tên tuổi như Épicure, Lucrèce, Le
Marquis de Sade, Friedrich Hegel, Fyodor Dostoyevsky, Friedrich Nietzche, và
André Breton trong một bức tranh lịch sử hợp nhất
của một kẻ nổi loạn. Khi xem xét bạo động và cách
mạng - được xem như cùng một hiện
tượng trong khung cảnh cá nhân và xã hội – Camus xem xét
một số nhân vật và phong trào “phản kháng văn hóa
(contre-culturel) ” ** từ lịch sử văn học và nghệ
thuật tây phương, ghi nhận tầm quan trọng của
mỗi phong trào trong quá trình phát triển chung của tư
duy và triết học cách mạng.
Một trong những luận
điểm chủ yếu trong L’Homme
Révolté đề cập đến những động
cơ của nổi loạn và cách mạng – theo Camus có thể
xem như những trạng thái sinh tồn. Mặc dù hai hiện tượng
nầy triệt để khác nhau trên hầu hết các phương
diện, cả hai phát xuất từ sự chối bỏ
căn bản của con người đối trước
định chế pháp lý. Nếu
con người trở nên bất mản đối với
những luật lệ hiện có, Camus khuyên họ nên nổi
loạn. Sự nổi loạn
nầy, từ đó, chính là sản phẩm của sự mâu
thuẩn cơ bản giửa sự tìm kiếm không ngưng
nghỉ của trí óc con người nhằm giải tỏa
và bản chất căn bản vô nghĩa của thế giới. Được Camus xem là phi lý, sự
mâu thuân nầy phải được giải quyết với
thái độ Camus gọi là “sáng suốt - lucidité”. Theo Camus, chĩ có một người
ý thức được bản chất phi lý tiềm ẩn
của thế giới mới có thể nổi loạn thành
công. Sự vô vọng này, một
cảm thức phù phiếm, tượng trưng cho văn
mạch chung trong sáng tác của Camus. Ông khẳng định, kẻ nổi
loạn thực sự hiểu đuợc sức mạnh
không lường được của mâu thuẩn nhưng
vẫn quyết định nổi loạn. Bỡi vì sự nổi loạn
được thực hiện trong vô vọng hay không có một
niềm tin thực sự vào thành công nên kẻ nổi loạn
là tượng trưng căn bản cho điều thiện
và tử tế của nhân loại.
Về mặt lý luận, nổi loạn trước
phi phý là quan niệm của Camus về cuộc hành trình cam
khổ nhất của con người.
Một chủ đề
then chốt khác trong L’Homme
Révolté liên quan đến khái niệm nổi loạn mới
tượng hình. Chủ đề
nầy là sự thất bại tất yếu của những
toan tính đi tìm sự toàn hảo của con người. Xuyên
qua nhiều cuộc cách mạng khác nhau, nhất là Cuộc
Cách Mạng Pháp, Camus cho rằng Cách Mạng chính là một
chối bỏ triệt để cả lịch sử lẫn
những giá trị siêu việt.
Không giống như kẻ nổi loạn, những
người làm cách mạng có khuynh hướng giết
Thượng Đế. Trong
Cuộc Cách Mạng Pháp, chẳng hạn, việc giết
Thượng Đế nầy được thể hiện
qua việc hành quyết Louis XVI và phế bỏ những Quyền
Thiêng Liêng của Vua. Theo Camus, kết
quả việc chối bỏ thiêng liêng là khởi đầu
của chủ nghĩa duy vật và không tưởng, một
diển biến mà Camus cho là đồng nghĩa với kết
thúc của lịch sử. Ông
tin rằng vì sự kết thúc nầy không thể đạt
được nên mới có bạo động: những người làm cách mạng
cố tình bắt những kết quả phải xảy
ra. Điều nầy tựu
trung dẩn đến hậu quả phi lý là nô lệ hoá
con người nhân danh giải phóng họ trong tương
lai - một mâu thuẩn trên ngôn từ, vì, theo Camus, cách mạng
phủ nhận tương lai và chĩ đặt nền tảng
trên lịch sử mà thôi. Điểm
nổi bật là: sự tin tưởng của Camus vào tình
cảm siêu việt không có nghĩa là ông biện hộ cho tôn
giáo. Thực vậy, dùng cách mạng
để thay thế đạo đức xây dựng trên
cơ sở thiêng liêng bằng chủ trương thực
dụng chĩ có nghĩa là tôn vinh những giá trị đạo
đức siêu việt.
Đối trước
một bên là những bất công hiển nhiên trong cuộc sống
con người, một bên là sự thay thế tồi tệ
của cách mạng, kẻ nổi loạn của Camus tìm cách
đấu tranh cho công lý mà không chối bỏ những giá
trị siêu việt. Chủ
đề nầy đi song song với chủ đề Phi
Lý theo nghĩa là một số nhửng giá trị hay tư
tưởng không thể bị phủ nhận một cách
chính đáng: trong trường
hợp người nổi loạn, nguyên tắc về giá
trị nội tại của sự sống con người
phải được duy trì.
Do đó, những kẻ nổi loạn cố gắng
biện minh hành động của mình dưới hình thức
đềnh bù cụ thể.
Theo luận điểm của Camus, những người
khủng bố Nga hoạt động vào đầu thế
kỷ 20 sẵn sàng hy sinh tính mạng của họ để
đổi lại những sinh mạng mà họ đã giết. Bằng cách đó, những người
nổi loạn khẳng định nguyên tắc căn bản
coi như trong tất cả tác phẩm của Camus: giá trị
nội tại của sự sống. Nói một cách đơn giản,
kẻ nổi loạn chết vì tương lai, trong khi những
kẻ khủng bố đương thờ thì giết vì
quá khứ. Luận điểm đó có lẽ là minh hoạ
thực tế tốt nhất cho thuyết Phi Lý của
Camus.
** Contre-culture:
một ngôn từ xã hội học dùng mô tả những giá
trị và tiêu chuẩn văn hóa trong hành xử của
một nhóm văn hóa hay thứ văn hóa, chống lại
những giá trị hay tiêu chuẩn của định
chế văn hóa chính nguồn.
Quan điểm của Camus về Phi Lý
(L’Absurde)
Nhiều nhà văn đã
viết về Phi Lý, mỗi người viết theo một
diển đạt riêng về thực chất của Phi Lý
và theo quan niệm riêng về tầm quan trọng của Phi
Lý. Ví dụ, Jean Paul Sartre nhìn
nhận tính phi lý của kinh nghiệm cá nhân, trong khi
Kierkegaard giải thích rằng tính chất phi lý trong một
số tín điều tôn giáo ngăn cản chúng ta đạt
đến Thượng Đế bằng lý trí. Camus không phải là người đề
xuất thuyết Phi Lý (Absurdisme) và hối tiếc khi
được tham chiếu như là một triết gia về
thuyết Phi Lý. Camus càng lúc càng
tỏ ra ít quan tâm hơn về Phi Lý ít lâu sau khi xuất bản
Le Mythe de Sisyphe. Để phân biệt quan niệm
của Camus vế Phi Lý với những quan niệm của
các triết gia khác, người ta đôi khi dùng chữ “Nghịch
lý của Phi Lý (Paradoxe de L’Absurde)” để ám chỉ
quan niệm Phi Lý của Camus.
Trong các bài tiểu luận,
Camus đưa ra những lưởng đối: hạnh phúc và đau khổ, sáng và
tối, sống và chết, v.v.
Mục tiêu của ông là muốn nhấn mạnh trên sự
kiện hạnh phúc luôn trốn chạy và thân phận con
người là sinh ra để chết. Ông làm thế không phải vì bệnh
họan, nhưng để phản ảnh một đánh
giá cao hơn đối với cuộc đời và hạnh
phúc. Trong Le Mythe de Sipsyphe, lưởng đối nầy trở
thành một nghịch lý (paradoxe):
chúng ta quí giá sự sống vô cùng, nhưng đồng
thới chúng ta biết rằng cuối cùng mình sẽ chết,
và cuối cùng những công lao của chúng ta cũng chĩ là
vô nghĩa thôi. Trong khi chúng ta sống
với một lưởng đối (Tôi chấp nhận những giai đoạn bất
hạnh bỡi vì tôi biết rằng mình cũng sẽ có
được hạnh phúc sắp tới), chúng ta không thể sống với
nghịch lý (Tôi nghĩ rằng
cuộc đời vô cùng quan trọng, nhưng tôi cũng
nghĩ rằng cuộc đời đó vô nghĩa). Camus suy tư về cách thức cảm
nhận Phi Lý và cách thức chúng ta sống với Phi Lý đó. Cuộc sống phải có ý nghĩa
thì chúng ta mới quí giá nó. Nếu
chúng ta chấp nhận cuộc đời vô nghĩa và do đó
vô giá trị thì liệu chúng ta có nên tự sát không?
Camus có một phần đóng
góp quan trọng cho quan điểm về Phi Lý, và ông luôn luôn
bác bỏ thuyết hư vô như một phương thức
đáp ứng. Đối với
Camus, ý nghĩa vẫn tồn tại ở chổ, mặc
dù con người có bị đặt trong một vũ trụ
“phi lý” và thờ ơ – ý nghĩa bị thử thách bỡi
sự kiện chúng ta sẽ chết – ý nghĩa có thể sáng
tạo bằng những quyết định và diển đạt
của chính chúng ta, cho dù là tạm bợ và mong manh.
Phản đối chủ nghĩa độc tài
Suốt đời,
Camus lên tiếng phản đối mạnh mẽ chế
độ độc tài dưới nhiều hình thức. Ngay từ buổi
đầu, Camus hoạt động tích cực trong Cuộc
Kháng Chiến Pháp trước sự chiếm đóng của
Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến, ngay cả
điều hành tờ báo nổi tiếng Combat. Đối với
những người Pháp hợp tác với Đức Quốc
Xã, ông viết,
“Bây giờ giá trị
đạo đức duy nhất là lòng can đảm,
dựa vào đó để phán xét những tên bù nhìn và ba hoa
giả vờ đại diện cho nhân dân.”
Bất đồng quan điểm nổi tiếng giửa
Camus và Sartre bắt nguồn từ sự phản đối
độc tài nầy của Camus.
Camus phát hiện được hình thức độc
tài phản xạ trong điều gọi là “chính sách quần
chúng” do Sartre hổ trợ nhân danh chủ nghĩa Marxist cực
đoan. Điều nầy rõ
ràng trong tác phẩm L’Homme Révolté,
không những một công kích chế độ công an trị
Sô Viết, mà còn là một dấu hỏi liên quan đến
bản chất thực sự của chính sách cách mạng
quần chúng. Camus tiếp tục
lên tiếng phản đối những tàn bạo của
Liên Bang Sô Viết, một quan điểm được
ghi nhận trong bài diển văn năm 1957, nhân ngày kỷ
niệm cuộc Cách Mạng Hung Gia Lợi, cuộc nổi
dậy bị Hồng quân Liên Sô đàn áp đẩm máu.
Ai đã giết Camus?
Ai đã giết Camus vào ngày 4/1/1960, lúc 13 giờ 55, tại
cổng làng Villeblevin, trên Quốc Lộ 5? Người lái chiếc xe Facel Vega là Michel Gallimard, bạn
thân đồng thời là nhà xuất bản của
Camus. Chiếc xe tông vào một
cây sung dâu, giết chết cả hai người.
Ai là kẻ sát nhân?
·
Phải chăng là sở mật vụ của Franco, theo
giả đoán của nữ văn sỹ Carme Riera trong cuốn
sách ít người biết đến, “La Moitié de L’Âme”?
·
Phải chăng là Jean Daninos, người sáng chế chiếc
xe Facel Vega, rất đẹp nhưng kém an toàn và trở thành
chiếc quan tài bằng kim loại của Camus?
·
Phải chăng là Hội Đồng giải Nobel, tổ
chức đã trao cho Camus giải thưởng ba năm
trước đó? Giải
thưởng nầy dường như đã khiến đóng
băng trong hào quang một sự nghiệp văn học đang vận hành. Jacques Laurent ước đoán, “Nobel phong vương một sự
nhiệp đã kết thúc.”
·
Phải chăng là Algerie, người mẹ nuôi ăn
con, người buộc Camus phải lựa chọn -
Algerie hay công lý -, khi ông chĩ yêu thích xứ sở có đại
dương và mặt trời.
Không ai giết cả, chắc chắn là thế. Không ai cả, ngoại trừ nổi
phiền muộn, nỗi buồn thăm thẳm của kẻ
đã nhận thức quá sớm cho nên cứ tin rằng mình
đang ngập sâu trong sai lầm, của kẻ mà nỗi hoài
nghi theo chân từng bước một, kẻ chẳng bao
giờ xem sự thành công như là một hào quang nhưng gần
như là một niềm đau khổ.
“Personne, sinon le chagrin, l'insondable tristesse de celui qui eut raison si tôt qu'il crut être enfoncé dans l'erreur, de celui dont le doute accompagna chaque pas, celui pour qui le succès ne fut jamais un baume mais presque une souffrance.”
Lương Tấn Lực