Ư nghĩa cuộc sống

(Phần tiếng Anh: Trang 149)

The Search for Meaning

- Dennis Ford

 

Chương 4

 

Khoa Học và Ư Nghĩa

 

Con đường đi qua Aristote

 

Con đường từ tinh thần triết học đến tinh thần khoa học đă đi qua Aristote.  Aristote đă đưa Platon "xuống đất" và, khi làm như thế, đă thiết lập một căn bản, trên đó Kepler, Galileo, và Descartes, cùng những người khác sẽ xây dựng lâu đài của tinh thần hiện đại.  Tinh thần khoa học mà Aristote giúp tạo nên - cũng như tinh thần hậu hiện đại theo sau đó - tượng trưng cho một đoạn giao với những thần  thoại và triết học trước đó, chủ yếu là v́ nó bác bỏ những cơ sở siêu h́nh vốn làm nền tảng cho thần thoại và triết học.  Trong khi thần thoại nh́n cuộc sống hằng ngày như một phục hoạt của những câu chuyện thiêng liêng, và triết học siêu vượt đời sống hằng ngày bằng cách nhờ đến lănh địa của những Biểu Mẫu (Forms), khoa học vẫn cương quyết và dứt khoát đứng lại trong thế giới nầy.  Khi chỉ một ḷng đứng lại trong thế giới nầy, tinh thần khoa học căn bản thay đổi những hoài băo của chúng ta liên quan đến những ǵ tạo nên một cuộc sống ư nghĩa và làm thế nào để đạt được nó.

 

Những đóng góp của Aristote  cho tinh thần khoa học là vô kể, nhưng trong mục đích của chúng ta, những đóng góp đó có thể rút lại thành bốn.

 

Thứ nhất, Aristote phân biệt những đặt tính nhất đẳng (primary quality) với những đặc tính nhị đẳng (secondary quality).  Phạm trù của thực thể (substance) là nhất đẳng và độc lập, trong khi phạm trù khác, phạm trù nhị đẳng, là thuộc hệ (derivative). Ví dụ, phạm trù nhất đẳng, hay phạm trù thực thể, của một con ngựa là "thực thể ngựa (horseness)" trong khi những phạm trù nhị đẳng của đặc tính (trắng), đặc tính (cao), và bổ ngữ đối chiếu (nhanh hơn) là thuộc hệ.  Một con ngựa có thể trắng hay nâu, cao hay thấp, nhanh hay chậm, và vẫn là ngựa, nhưng "thực thể ngựa" th́ nhất đẳng và không thể thay đổi mà không thay đổi chủng loại của động vật.  Sự phân biệt căn bản giữa những đặc tính nhất đẳng và nhị đẳng đôi khi có thể trở nên căn bản cho sự phân biệt hiện đại quen thuộc giữa khách quan và chủ quan - khách quan là nhất đẳng và như thế thực thể hơn.

 

Thứ nh́, Aristote nhận thấy rằng mọi thực thể gồm có vật chất và Biểu Mẫu.  Vật chất là khả thể, thực thể hiện hữu (substance of being) trung gian được minh ha hay thành h́nh  nhờ Biểu Mẫu.  Biểu Mẫu, vốn cố hữu trong bản chất, và không hiện hữu riêng rẻ với phần hiện thân vt lư của nó, cung ứng cơ cấu khả tri cho khối vật chất lư ra là vô h́nh.  Như thế, để xử dụng một ví dụ đương thời, "vật chất" của những nguyên tử carbon có thể trở nên hoặc là than ch́ (graphite) hoặc một kim cương tùy theo h́nh thể nó có, y như DNA xác định cơ cấu tăng trưởng của các tế bào, quyết định tế bào nầy sẽ trở thành một ngón tay, trong khi tế bào kia sẽ trở thành một bàn chân.

 

Sự phân biệt giữa vạt chất và Biểu Mẫu cung ứng nền tảng cho sự phân biệt của Aristote giữa tiềm năng (potential) và thực trạng (actuality).  Vật chất di chuyển từ tiềm năng bất định đến thực tế xác định dựa theo thông tin rơ rệt trong Biểu Mẫu nội tại.  Biểu Mẫu ra lệnh và khởi đng sự phát triển của tiềm năng trong một thực thể sao cho nó hiện thực

hóa yếu tính cố hữu của nó.  Như thế, để đưa ra một ví dụ c điển, Biểu Mẫu của cây sồi là tiềm ẩn trong quả đầu (acorn).  "Vật chất" và tiềm năng  của quả đầu trở nên một cây sồi thay v́ cây sơn thù du (dogwood) v́ nó sở hữu Biểu Mẫu của cây sồi và được Biểu Mẫu nầy phát họa.  Tương tự, Aristote thường lư luận rằng Biểu Mẫu và mục tiêu của một đứa trẻ là trở nên một người lớn, y như Biểu Mẫu và mục tiêu của một phôi (embryo)  là trở thành một đứa bé.  Theo truyền thống, người ta chống đối việc ngừa thai là v́ tin rằng chúng ta không nên cản trở hay quấy nhiểu mục đích, cứu cánh, và Biểu Mẫu của giao cấu, tức là sinh sản.  Đối với Aristote, Biểu Mẫu nằm trong thiên nhiên.  Xin nhớ rằng đối với Platon, những Biểu Mẫu hiện hữu trong một lănh địa riêng biệt phi giác quan.  Một cái ghế là một "cái ghế" bởi v́ nó mô phỏng cái ghế lư tưởng, mặc dù không hoàn chỉnh.  Biểu Mẫu của cái ghế hiện hữu độc lập với bất kỳ cái ghế đặc thù nào và, hơn thế, về mặt siêu h́nh, nó thực hơn bất kỳ một phiên bản đặc thù nào.  Tất cả các ghế đều như nhau, v́ tất cả ghế đề tham gia vào Biểu Mẫu của yếu tính ghế (chairness).  Ngược lại, Aristote cho rằng những thực tại cá thể chia xẻ những đặc tính chung, mà tinh thần có thể lănh hội được,   nhưng những đặc tính chung hay phổ quát nầy không phải là những thực thể độc lập với những hiện thân đặc thù của chúng.  Những đặc tinh chung của ghế, như có bốn chân, chẳng hạn, là có thể phân biệt về mặt khái niệm với bất kỳ một cái ghế đặc thù nào, nhưng về mặt siêu h́nh, chúng khong độc lập hay siêu đẳng hơn những ghế đặc thù.  Thẩm Mỹ (Beauty) không phải là một lư tưởng siêu việt, trong đó ṭa nhà đẹp và bức tranh đẹp tham gia vào, mà là một nét chung và tổng quát hóa mà ṭa nhà đẹp và bức tranh đẹp chia xẻ. Khi xác định vị trí những phạm trù phổ quát như ghế  và cái đẹp trong những đặc tính chung  mà chúng ta t́m thấy theo diễn dịch trong bao nhiêu phiên bản đặc thù, Aristote đă quay đầu của Platon lại.  Những Biểu Mẫu siêu việt của Platon trở thành một cơ cấu nội tại hay cận kề trong thế giới nầy. V́ những Biểu Mẫu bấy giờ được xác định trong thế giới nầy, thay v́ trong một thế giới siêu việt, thế giới nầy trở nên quan trọng hơn. Nhà triết sử Richard Tarnas  tóm lượt rơ ràng mối liên quan giữa những đặc thù và phổ quát như sau:  "Khi thay thế những Lư Tưởng của Platon với những phổ quát, những đặc tính chung mà tinh thần có thể lănh hội được trong thế giới thực nghiệm nhưng không hiện hữu một cách độc lập với thế giới đó, Aristote  đă đảo ngược siêu h́nh học của Platon.  Đối với Platon, đặc thù ít thực hơn, v́ là một thuộc hệ của phổ quát; đối với Aristote, phổ quát th́ ít thực hơn, v́ là một thuộc hệ của của đặc thù.  Những phổ quát cần thiết cho kiến thức, nhưng chúng không hiện hữu như những thực thể tự tại trong một lănh địa siêu việt."   

 

Bề ngoài và thực tại

 

Có những xu hướng bắt chước Aristote - phân biệt những đặc tính nhất đẳng và nhị đẳng, thực thể và Biểu Mâu, sự di chuyển từ tiềm năng sang thực tế, và thay thế những Biểu Mẫu siêu việt với những Biểu Mẫu cố hữu trong thiên nhiên.  Nhưng khuynh hướng đó được phục hồi và cải tiến với sự phát triển của khoa học cổ điển từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. 

 

Những khoa học gia thời kỳ đầu du nhập những phân biệt của Aristote băng cách định nghĩa những phạm trù hay đặc tính nhất đẳng như là trừu tượng, có thể đo lường được, khách quan, và mang tính cách tóan học (kích thước, h́nh dáng, số lượng, trọng lượng, chuyển động), tát cả cố hữu trong vật thể  "ngoài kia" trong khi những đặc tính nhị đẳng là những đặc tính mà giác quan cảm nhận hay tinh thần lắp ráp lại, vốn nằm trong chủ thể con người (như màu sắc, h́nh dáng, mùi vị, xúc giác, vị giác và ư thức).  Theo nhận định của sử gia về khoa học E. A. Buntt, Galieo và Kepler thực hiện một "phân biệt rơ ràng giữa một bên là thế giới tuyệt đối, khách quan, bát di bất dịch, và toán học, và một bên là thế giới tương đối, dao dộng, và cảm nhận được bằng giác quan.  Thế giới thứ nhất là lănh địa của kiến thức, thiêng liêng và thuộc về con người; thế giới thứ nh́ là lănh địa của tư kiến và ảo tưởng."  Những đặc tính về lượng, có thể đo lường được về trọng lượng, vận tốc, và kích thước của một con ngựa là nhất đẳng, màu sắc và mùi là nhị đẳng và chỉ phản ảnh một sở thích chủ quan.  Nếu tôi đánh cá ngựa  ở Kentucky Derby, tôi phải biết con ngựa chạy nhanh thế nào theo tính toán, chứ không phải màu sắc của nó. Vận tốc của con ngựa là một "sự kiện" đo lường được, không phải là một vần đề tư kiến.

 

Theo cách tŕnh bày cổ điển của Copernic,vấn đề của những đặc tính nhị đẳng và giác quan thường là: chúng không thể tin cậy được.  Theo giác quan của chúng ta, trái đất có vẻ đứng yên một chỗ và mặt trời mọc và lặn. Theo giác quan của chúng ta, mặt trăng ở chân trời trông lớn hơn so với khi  khi nó chiếu sáng ngay trên đầu.  Theo giác quan của chúng ta, cái bàn mà tôi ngồi đánh chữ có vẻ là thể rắn, nhưng khoa học bảo tôi rằng, nếu tôi có thể thu nhỏ xuống kích thước của một nguyên tử tôi sẽ thấy phần lớn  không gian là trống, v́ tỉ lệ của vật chất với không gian bằng tỉ lệ của một quả bóng chày  với một sân vận động.  Nếu từ ngoài lạnh đi vào pḥng th́ chúng ta thấy nóng; nếu từ một chỗ nóng hơn đi vào cũng căn pḥng đó th́ chúng ta thấy pḥng lạnh.  Sự di chuyển của những  thiên thể theo giác quan của chúng ta hoàn toàn không liên quan đến sự rơi của quả táo. Như thế “tri thức” nào đến với chúng ta qua giác quan cũng có thể chứng minh được là đặc thù, mâu thuẩn, và không đáng tin cậy.

 

Làm sao chúng ta đạt được tri thức chắn chắn hơn?  Thông qua một quá tŕnh trừu tượng hóa, nghĩa là, phân chia ra, đặc tính nhất đẳng khỏi những đặt tính nhị đẳng.  Chỉ những đặc tính có thể đo lường được, khách quan mới được xem là nhất đẳng, trong khi những đặc tính có thể tri giác được phải bị bỏ qua v́ chủ quan và nhất thời. Hay nói cách khác, những đặc tính nhất đẳng và căn bản hơn là vật chất và cho thấy chiều đo lường, trong khi những những đặc tính nhị đẳng  th́ không vật chất và không thể đo lường được.  Hơn nữa, như tên gọi, những đặc tính nhị đẳng bị lệ thuộc vào những đặc tính nhất đẳng và không hiện hữu riêng biệt được. Tóm lại, đối với tinh thần khoa học, "cái quan yếu là vật chất."  Vật chất vật lư chứa một cấu trúc cố hữu hay một ḥa điệu có thể được mô tả bằng bảng chữ cái của những nguyên tắc toán học và cơ học hay những định luật; chúng ta có được tri thức nhờ tuần tự khám phá và đối chiếu kỹ lưởng hơn những tư tương của chúng ta với trật tự cơ bản nầy, nếu nó là vô h́nh và trừu tượng.  Tương tự như tinh thần triết học, trật tự nầy được lănh hội bởi tri thức, không phải quan giác quan lừa dối.  Sự phân biệt giữa bề ngoài và thực tại không phải là mới. Điều mới là định nghĩa (tức giản lượt?) thực tại vào những đặc tính nhất đẳng  có thể mô tả được bằng những từ toán học và cơ học.    Thực vậy, Kepler thường đi xa hơn và cho rằng, không chỉ có một cấu trúc toán học hay ḥa hợp cố hữu trong thiên nhiên, mà trật tự như thế là "nguyên nhân" của những sự kiện được quan sát, tương tự như một Biểu Mẫu nội tại khiến quả đầu trở thành cây sồi.

 

Ngoài việc phân biệt những đặc tính nhất đẳng và nhị đẳng, những giải thích khoa học bao gồm một yếu tố quan trọng khác: thuyết nguyên tử (atomism), hay niềm tin cho rằng vạt chất bao gồm những nguyên tử bất khả phân vô cùng nhỏ.  Thuyết nguyên tử giả định rằng những ǵ nhỏ và phân tử (molecular) - kể cả những tư tưởng đơn giản - th́ căn bản hơn là những ǵ lớn và hợp tử (molar).  Những nguyên tử hay cấu tố (building blocks) của vũ trụ bao gồm những vật thể giống nhau, bất luận chúng xảy ra tên mặt đất hay trong những thiên thể, trong thiên nhiên hay trong nhân loại. Nếu được lấy ra từ nguồn gốc của chúng, H2O giống nhau bất luận nó xảy ra trên biển, trên Sao Hỏa, hay trong một giọt nước mắt trên má của một người.  Khi chấp nhận quan điểm cho rằng những hiện tượng có thể được phân tích và giải thích qua sự phối hợp và va chạm của một số giới hạn của những nguyên tử căn bản (fundamental atoms) hay yếu tố, Galileo và những người kế tiếp của ông phục hồi lại những phương diện của triết học Hy Lạp và cung ứng những nền tảng cho loại cảm quan đă trở thành trực quan (common sense).

 

Nhân quả và tri thức

 

Thuyết nguyên tử và tính ưu việt của những phương diện vật chất, khách quan của thiên nhiên đă đóng góp một hiểu biết mới, hiện đại về nhân quả và ư nghĩa. Yếu tố cuối cùng đóng góp cho tri thức mới đó là một cải tiến liên quan đến sự phân biệt giữa tiềm năng và thực tại.

 

Xin nhớ rằng, đối với tinh thần thần thoại, hiểu biết và tri thức có nghĩa là có thể nh́n thấy, định danh, và tham gia vào một mối tương quan giưa những biến cố và những tự truyện thần thoại.  Tương tự, đối với tinh thần triết học, những điều trên có nghĩa là nh́n thấy và thiết lập được một tương quan giữa những biến cố và những tư tưởng Platon, hay những Biểu Mẫu siêu việt.  Ngược lại, đối với Aristote, "biết" là hiểu được những nguyên nhân của sự việc xảy ra.  Tri thức diễn dịch những nguyên nhân hay được giản lượt vào những nguyên nhân đó.   Tri thức không có nghĩa là thiết lập một tương quan với những tự truyện, ư thức hệ, hay những Biểu Mẫu, mà giải thích sự di chuyển từ tiềm năng đến thực tại.

 

Theo Aristote, có bốn phạm trù về nguyên nhân: (1) Duy bản chất - formal; (2) vật chất - material (3) hữu hiệu - efficient; (4) tối hậu - final.  Bốn phạm trù nầy lần lượt trả lời những câu hỏi (1) Đó là cái ǵ? (2)  Nó làm bằng thứ

ǵ?  (3) Ai hoặc cái ǵ tạo ra nó? (4) Tại sao nó hiện hữu, hay mục đích để làm ǵ?  Như thế, trong trường hợp một bức tượng, chẳng hạn, nguyên nhân bản chất, là Biểu mẫu, hay cái mà chúng ta có thể gọi là "tư tưởng" của bức tượng, hay mục đích sáng tạo ra nó.  Nguyên nhân vt chất là đá hoa; nguyên nhân hữu hiệu là nhà điêu khắc ; và nguyên nhân tối hậu là trang trí, một đài kỷ niệm hay vinh danh Thượng Đế.  Tương tự, nguyên nhân bản chất của một cái nhà là thiết kế do kiến trúc sư tạo ra, những nguyên nhân vật chất là gạch, và hồ, những nguyên nhân hữu hiệu là những lớp gạch và những th mộc, và nguyên nhân tối hậu là cung cấp nhà ở.  Mặc dù đ h́nh bốn mặt nầy là đồ h́nh dễ hiểu nhất khi áp dụng cho những vật thể do con người tạo ra, Aristote cũng áp dụng nó cho những vật thể trong thiên nhiên, như hoa và cây.  Như thế, nguyên nhân bản chất của một cây đang lớn là Biu Mẫu của cây táo mà nó giả định phải trở nên, những nguyên nhan vật chất là gỗ, lá, vả rể, nguyên nhân hữu hiệu là thiên nhuên hay Thượng Đế, và nguyên nhân tối hậu là cung ứng trái cây cho nhân loại hay có thể để tượng trưng cho cái cây trong Vườn Địa Đàn.

 

Mặc dù tất cả những vật chất như thế đều có bốn nguyên nhân, chúng di chuyển tử tiềm năng sang thc tế v́ nguyên nhân tối hậu, cứu cánh, hay telos của chúng.  Câu hỏi v nguyên nhân tối hậu chỉ có thể được trả lời dựa trên mục đích và ứng dụng.  Nếu không có telos hay mc đích cung ứng nhà ở, cái nhà sẽ không được xây; nếu không có ư muốn vinh danh Thượng Đế hay trang trí một công trường, th́ bức tượng sẽ không thể tạo ra.  Huston Smith cho thấy "cảm giác nầy dễ chịu thế nào về nhân quả, ư niệm cho rằng sự vật di chuyển v́ bị  lôi cuốn về cái ǵ vượt khỏi chúng, và sẽ thỏa măn chúng đến độ chúng tự tái chế cho giống nó.  Đối với Aristote, toàn thể vũ trụ như thế được sinh động hóa.  Mọi vật đạt đến t́nh trạng tốt hơn của ḿnh trong nỗ lực mang về cho ḿnh những giá trị." Quan niệm truyền thống về thiên nhiên như thế gọi là vạn vật hữu linh.  Nó "dự phóng một vũ trụ trong đó tinh thần không ngừng làm việc, lôi kéo và kích động những sinh vật đến những cứu cánh  được chỉ định từ đầu... do đó sự giải thích thực sự của tất cả những hiện tượng là siêu h́nh."  Tri thức cao nhất, Sophia (trí khôn), -  được phân biệt với kinh nghiệm (entpeh-ia) hay tài nghệ (tekhue) - là biết nguyên nhân và cứu cánh của sự vật.  Biết một vật nào đó không phải là biết đó là cái ǵ nhưng biết nó đ làm ǵ, hay cứu cánh của nó là ǵ.  Tây Phương, quan tâm về cứu cánh được tăng cường bởi những khái niệm Ky Tô Giáo về cứu  cánh mạt thế của lịch sử (eschatological end to history).  Mục đích của lịch sử được t́m thấy trong sự chấm dứt của lịch sử, y hệt như mục đích của cuộc sống cá nhân được t́m thấy trong Ngày Phán Xét.  Vốn là những thừa tự của cả Aristote và Cơ Đốc Giáo, chúng ta như thế dễ dàng rơi vào kết luận cho rằng một cuộc sống là vô nghĩa nếu nó không có mục đích hay cứu cánh ư nghĩa.  Ư nghĩa luôn luôn nh́n v một một cứu cánh có giá trị và lệ thược vào cứu cánh đó. 

 

Kế đó, cuộc sống là vô nghĩa nếu chúng ta không th trả lời câu hỏi: Để làm ǵ?

Hoàn toàn tương phản với Aristote, tinh thần khoa học chi bỏ những nguyên nhân tối hậu và do đo chi bỏ mục đích trong vũ trụ.  Thay v́ t́m nguyên nhân hay giải thích một sự vật nào đó trong cứu cánh của nó, tinh thần khoa học hiểu nhân quả theo một chuỗi biến cố xảy ra trước một hệ quả.  Tinh thần khoa học như thế lật ngược đầu Aristote.  Thay v́ nh́n về phía nguyên nhân tối hậu hay cứu cánh tối hậu, khoa học nh́n ngược lại những nguồn gốc của một chuỗi nhưng biến cố với nguyên nhân và hậu quả.  Nhiệm vụ hiểu và giải thích như thế trở thành một  quá tŕnh phân tích biến cố vào một chuỗi những biến cố đơn giản hơn, nguyên tử mà những liên hệ nhân quả được chi phối bởi những định luật thiên nhiến phổ quát không thay đổi.    Do đó nguyên nhân của một đóa hoa không phải có mục đích vinh danh Thượng Đế hay mang lại vẻ đẹp cho nhân loại mà là một chuỗi những biến cố sinh học và hóa học chấm dứt ở cái cây trổ hoa.  Thượng Đế, gi không c̣n là một nguyên nhân tối hậu, bị đẩy lùi xuống thành nguyên nhân tiên khởi thần thánh, người chế tạo đồng hồ vĩ đại, nếu bây giờ vắng mặt, đă tạo ra then máy thiên nhiên tự biết duy tŕ.  Khoa học cổ điển nh́n vào chuỗi biến cố vật chất từ đó một sự vật nào đó đă đến, thay v́ nh́n vào những biến cố mà nó đang đi đến.  Khi làm như thế, cùng một lúc nó di chuyển từ siêu h́nh đến hữu h́nh, từ triết học đến triết học thiên nhiên, từ cứu cánh đến nguồn gốc.  Tinh thần khoa học quan tâm t́m hiểu sự vật tác động hay xảy ra như thế nào thay v́ nguyên nhân nào hay cứu cánh nào chúng làm như thế.

 

Khi phân biệt một chuỗi biến cố theo nhân quả, tinh thần khoa học chỉ nh́n độc nhất vào những đặc tính nhất đẳng  của một thực thể, kể cả những đặc tính vật chất, nguyên tử v trọng lượng, kích thước, và chuyển động, cái có thể được đo lường và mô tả một cách toán học.  Đây là những đặc tính phổ quát, khách quan, trái ngược với những đặc tính chủ quan, nhị đẳng.  Chúng ta có thể không đồng ư về chiếc xe nào tốt hơn, chiếc Volkswagen xanh lá cây hay chiếc Corvette màu xanh đậm, nhưng chúng ta không thể không đồng ư về chiếc nào chạy nhanh hơn theo kết quả đo lường. Tiến tŕnh nhân quả diễn tiến bằng cách phân tích từ cái đơn giản qua cái phức tạp và từ cái trước đến cái sau.  Chuỗi đó là một chui đích thực chứ không phải tùy tiện, nghĩa là việc nầy theo sau việc khác theo những định luật thiên nhiên không thể vi phạm, một chiều, tất định, phổ quát, và không thay đổi.  Nếu không có chiều đo lường th́ không có nguyên nhân hay biến cố phi vt lư nào được cho phép, chuỗi biến cố cũng không thể bị vi phạm hay phủ quyết bởi những can dự, thần thánh hay h́nh thức nào khác.  Không ǵ đáng ngạc nhiên, trong khi Aristote dùng ẩn   

dụ sinh học để tŕnh bày những khái niệm của ông về sự tăng trưởng và chuyển động về những cứu cánh, tinh thần khoa học nh́n thế giới theo những đồng hố và máy móc.  Thực vy, theo nhà phê b́nh xă hi Bryan Appleyard, đồng hồ là mt biểu tượng đặc bit thích hợp cho quan sát khoa học, v́ vị trí của nó trong những nơi công cộng "nhấn mạnh rằng thời gian bây giờ  có một quyền vô ngă, một hiện hữu bên kia chúng ta nhưng văn là một hiện hữu mà chúng ta bây giờ có thể kiểm soát qua kiến thức của chúng ta.  Thời gian chủ quan - cảm quan riêng của chúng ta vể thời lượng - mặc nhiên bị xem thường và từ đó sinh ra sự tuân thủ hiện đại của chúng ta với thời gian khách quan có thể đo lường được."

 

Từ giải thích đến kỹ thuật

 

Nếu tinh thần khoa học dừng lại ở điểm thay thế những khái niệm của nó vào những khái niệm của Aristote hay Platon, th́ nó ch́ mới thành công trong việc phục hồi những triết lư cổ điển hơn như thuyết nguyên tử và sự phân biệt giữa những đặc tính nhất đẳng và nhị đẳng.  Chủ thuyết thần học về siêu thực tại (transubstantiation), chung qui, phân biệt giữa cơ thể tinh thần thực sự của Christ và bánh ḿ  vt chất  và rượu vang Thánh thể.  Sự canh tân quan yếu của tinh thần khoa học là sự khẳng định rằng chúng ta không thể đơn thuần suy luận con đường của chúng ta đi đến chân lư, nhưng chân lư cũng đ̣i hỏi một tiến tŕnh quan sát cẩn thận qua diễn dịch, thực nghiệm và chứng minh công khai.

 

Khoa học tŕnh bày mt di chuyển từ khách quan sang phân loại (taxonomy), và từ tiên đoán sang kiểm soát.  Trước hết, khoa học được xây dựng trên sự đồng thuận giữa những quan điểm chủ quan.  V́ xuất hiện như thế xuyên qua một thời đại chiến tranh tôn giáo bất tận, đó là một

trong những thỉnh cầu của nó.  Tuy nhiên, thứ nh́,  khoa học là tiên liệu.  Phân loại, như phân loại đá và những chủng loại sinh học, chẳng hạn, theo một nghĩa nào đó, là một khóa học, hay, có lẽ chính xác hơn, là một tiền khoa học, nhưng nó không đ̣i hỏi sự tôn kính mà chúng ta dành cho những khoa học tiên đoán.  Thành quả lớn của Galileo và Newton là họ có thể chinh xác và công nhiên tiên liệu được sự vận hành của những hành tinh và đạn đạo của một viên đạn và có thể làm thế theo một cách mà mọi người có th thấy.  Lư thuyết khoa học, bất luận hấp đăn đến đâu về mặt trí thức, vẫn không hoàn chỉnh cho đến khi nó bao gồm được một thí nghiệm  cho thấy nó đúng hay sai.  Nếu một lư thuyết không thể được thí nghiệm để kiểm chứng giá trị của nó, đó không phải là một lư thuyết khoa học.  Những kết quả của cuộc thí nghiệm, và khả năng lặp lại thí nghiệm, đương nhiên đưa đến sự đồng thuận.  Tuy nhiên, hơn cả tiên đoán là khoa học nào cũng có thể kiểm soát một chuỗi biến cố thông qua thực nghiệm và kỹ thuật.  Quan sát và tiên đoán thời tiết ngày mai là một chuyện; gom mây với halogen để làm cho trời mưa là chuyện ḥan toàn khác.  Quan sát và tiên đoán tiến tŕnh của một căn bệnh là một chuyện nhưng chích ngừa sổt tê liệt và trồng trái là chuyện ḥan toàn khác. Appleyard kết luận, "Sự hữu hiệu hiển nhiên và to lớn là ưu điểm lớn của khoa học. Bất chấp chúng ta có nghĩ ǵ khác về nó, chúng ta phải chấp nhận rng khoa học hữu hiệu.  Penicillin chửa bệnh, máy bay bay, mùa màng phát triển mạnh hơn v́ có phân bón, và v.v."

 

Sau đây là hai nhận định về tinh thần khoa học trước khi chúng ta đi xa hơn.  thứ nhất, tinh thần khoa học là thuyết nhất thần (monotheistic).  Sự hữu hiệu và năng lực của nó hạ bệ và đưa ra lề những triết học thay thế và những khác biệt địa phương hay văn hóa, vốn bị bác bỏ như là nhị đẳng và ch quan,  Bất luận chúng ta có nghĩ ǵ hay tin ǵ, tất cả chúng ta đều muốn penicillin khi con cái chúng ta lâm

bệnh.  Thứ hai, đ  thực hiện một "nhảy vọt niềm tin" từ hữu hiệu khoa học sang chân lư của nó.  Khoa học trở nên duy khoa học bất kỳ khi nào điều nầy xảy ra.  Không có ǵ đáng ngạc nhiên khi sự hữu hiệu khoa học đưa đến một niềm tin sâu xa vào những nguyên tắc theo đó khoa học thành công: khách quan, nhân quả vt chất, đo lường, phân tách, và bác bỏ những đặc tính nhị đẳng. Appleyard nhận định, "Chỉ có một khoa học và, theo thời gian, tất cả những văn hóa cúi đầu trước quyền năng tuyệt đối  của nó và việc nó từ chối không chịu sống chung.  Kết luận hữu lư duy nhất có vẻ là, v́ một lư do nào đó, khoa học là Biểu Mẫu duy nhất của tri thức con người đích thực cho phép chúng ta truy cập vào một thế giới 'thực' mà thôi."

 

Tinh thần khoa học phát triển và những hậu quả của nó

 

Lần đầu tiên được áp dụng để giải thích những di chuyển của các hành tinh, nguyên tắc chỉ đạo của tinh thần khoa học - nguyên tắc nhân quả có thể được giản lượt vào những nguyên tử trung tính, không có sự sống và những lực di chuyển chúng - được áp ứng cho càng lúc càng nhiều bộ môn nghiên cứu hơn trong ba thế kỷ tiêp theo.  Theo kết luận trứ danh của nhà sử học Carl Becker,  triết học mới nầy đă "mê hoặc" thế kỷ 18.  Phương pháp giải thích hiện tượng từ dưới lên, nghĩa là, như kết quả của một chuỗi nhân quả của những biến cố thay v́ dựa vào một cứu cánh thần học, phương pháp đó được tuần tự áp dụng cho sự chuyển động của những vật thể, những nguồn gốc của đá và khoáng sản, sinh học, và cuối cùng là nhân loại.  Triết gia thế kỷ 17, Benedict Spinoza, đi trước mọi người, đă tuyên bố rằng ngay cả những hành động của con người cũng có thể được giản lượt vào một chuỗi những nguyên nhân vật lư, thay v́ những cứu cánh hay lư do thần học.  Ông tuyên bố, "Đa số các nhà văn viết về cảm xúc và hành vi con người dường như đề cập đến những vấn đề bên ngoài thiên nhiên thay v những hiện tượng thiên nhiên tuân theo những định luật tổng quát của thiên nhiên.  Họ có vẻ quan niệm con người như bị giới hạn trong thiên nhiên như một vương quốc bên trong một vương quốc; v́ họ tin rằng con người khuấ động trật tự thiên nhiên thay v́ tuân theo nó.  Tôi sẽ xem hành động và ư muốn của con người theo cùng một cách như tôi quan tâm với những đường thẳng, mặt phẳng, và những h́nh khối."

 

Những khuôn mặt lớn của thời kỳ hiện đại cùng có chung đặc điểm là giải thích hiện tượng bầng cách lần theo đến những tiền thân vật lư của chúng.  Hay nói cách khác, mỗi người họ  đề nh́n thấy và giải thích vũ trụ như một then máy lớn.  Huston Smith tom lượt rơ ràng lịch sử như sau:  "Đối với Newton, các tinh tú trở thành những máy móc.  Đối với Descartes, thú vt là những máy móc. Với Hobbes, xă hội là một máy móc.  Với LaMettrie, cơ thể con người là một máy móc.  Với Pavlov và Skinner, hành vi con người là máy móc."  Darwin và những người thừa kế của ông lần theo tiến hóa của nhân loại để đến những h́nh thức sống đơn giản hơn và sơ khai và cui cùng đi đến những thành tố hóa học của chúng.  Khi làm như thế, sự sống của con người mất đi tính duy nhất của nó. Marx giản lượt lịch sử nhân loại và thuyết duy tâm (kể cả tôn giáo) vào những lực kinh tế vô ngă.  Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta hành động độc lập và theo lư trí, nhưng những nhà sáng lập xă hội học như Ludwig Gumplowicz (1838-1909) nói với chúng ta rằng giả định con người biết suy nghĩ là một sai lầm, v́ không phải con người suy nghĩ mà những cộng đồng xă hội của họ suy nghĩ.  Tín ngưởng và những tài liệu tôn kính được lột hết chất thần học (demythologized), nghĩa là, được "giải thích riêng biệt" bằng cách truy nguyên những nguồn gốc của chúng để đi đến những yếu tối lịch sử, tâm lư, hay xă hội học căn bản hơn.  Freud đi xa hơn nói rằng bên dưới ư thức chúng ta bị chi phối bởi những lực không phải lư trí.  Cuối cùng, chính tinh thần bị giản lượt vào những phản ứng hóa học và chất trung ḥa của một vật lư học

 hoàn toàn vật chất.  Đương nhiên, với ư thức, tinh thần khoa học  cũng phân hủy ư chí, giá trị đạo đức, ư hướng, ư thức hệ, chính trị, linh hn, và những cứu cánh ư nghĩa, v́ mỗi thứ đó sau đó được giản lượt vào những nguyên nhân cơ học, lănh đạm.  Trên viễn tượng đó, tinh thần con người và khả năng của nó về cái đẹp và t́nh yêu là một thành tựu tiến hóa.  Không có câu hỏi tại sao; chỉ có cúi đầu; không có cứu cánh, chỉ có nguồn gốc và phương tiện; không có lư trí, chỉ có nguyên nhân.

 

Và kết quả của thuyết giản lượt nầy?  Một mỉa mai lớn và một chân lư cũ, được diển tả theo một cách mới.

 

Mỉa mai lớn là nhân loại càng có được khả năng tiên đoán và kiểm soát thiên nhiên bao nhiêu, càng hiểu được những nguyên nhân của nó và tách rời khỏi những tất yếu của nó bao nhiêu th́ nhân loại càng bị ch́m đắm trong thiên nhiên bấy nhiêu và trở thành một yếu tố quyết định cho nhng lực  cơ học vô nghĩa của nó.  Nhân loại hoàn thành khả năng chửa bệnh và du hành lên mặt trăng, nhưng, đồng thời, nhân loại lại bị giản lượt vào một "vật thể" bị chi phối bởi những lực (vạt lư, hóa học, và điện cơ) những lực mà con người t́m cách kiểm soát. Vào lúc chiến thắng, nhân loại, và tất cả những lư tưởng  mà con người yêu quí, bị xuống cấp thành một đặc tính nhị đẳng. Richard Tarnas nhận xét, "Chúng ta có vẻ nhận được hai thông điệp từ hoàn cảnh hiện hữu của chúng ta; một mặt, hăy nỗ lực, hăy đi t́m ư nghĩa và thỏa măn tinh thần, nhưng mặt khác, hăy biết rằng vũ trụ, mà chúng ta được cấu tạo nên, là hoàn toàn lănh đạm với sự đi t́m đó, ví nó vốn không có linh hồn và hệ quả của nó là triệt tiêu.  Chúng ta cùng một lúc bị khích động và bị nghiền nát.  Trong khi vũ trụ th́ phi nhân một cách phi lư, không thể giải thích được th́ chúng ta lại không phải thế."

 

Và chân lư lớn là ǵ?  Chân lư là: sự vật không như ngui ta thấy chúng.  Tinh thần khoa học tŕnh bày trực giác của Platon cho rằng những cái bề ngoài và thực thể có thể phân biệt được theo mt cách khác hoàn toàn.  Sử gia về khoa học E. A. Burtt nói rất chí lư:  thế giới mà con người đă nghĩ rằng ḿnh sống trong đó - một thế giới  phong phú màu sắc và âm thanh, hương thơm, thú vui, t́nh yêu và vẻ đẹp, đâu đâu cũng vang vọng ḥa điệu cứu cánh và những lư tưởng sáng tạo - thế giới đó giờ đây chỉ được nhét vào những góc bé nhỏ li ti  trong các khối óc của những sinh vật hữu cơ được phân tán đó đây.  Thế giới thực sự quan trọng bên ngoài là một thế giớ đanh đá, lạnh lùng, không màu sắc, và câm điếc; một thế giới của lượng, một thế giới của những chuyển động có thể tính bằng toán học theo điều ḥa cơ học.  Thế giới của phẩm như con người trực tiếp cảm nhận trở nên chỉ như một hệ quả quái đản và tầm thường của guồng máy vô hạn đó.  Trong Newton, siêu h́nh học của Descartes...cuối cùng đánh đổ thuyết của Aristote và trở nên thế giới quan chiếm ngự của thời kỳ hiện đại.

 

Tiến bộ

 

Tinh thần khoa học giả định rằng có mọt thế giới thực, khách quan không lệ thuộc tinh thần "ngoài kia", và thế giới đó có thể hiểu được.  Khoa học là một phương pháp luận giải phóng chúng ta khỏi những đặc tính nhị đẳng và những xuyên tạc chủ quan như cảm xúc, tôn giáo, ư thức hệ chính trị, và tập quán địa phương.  Khi xuất hiện như thế trong một thời đi của những chiến tranh tôn giáo và chính trị liên miên, khung điều hành trung lập, vô tư của khoa học và đ̣i hỏi của nó phải tạo ra một thực tế cụ th mà con người có thể sờ mó và cân đo được đối với họ đă được hoan nghênh v́ khả năng của nó vượt qua tất cả những biên giới  chính trị, ư thức hệ, văn hóa, và tôn giáo.  "Sự kiện" trở nên tiêu đề tối hậu, kính cẩn chỉ định tri thức đích

thực, phân biệt với niềm tin hay tư kiến.  Trong một ṭa án, những nhân chứng có thể nói lúc thế nầy lúc thế khác về một trường hợp hay đặc tính hay tổng thể tâm lư của bị cáo, nhưng câu hỏi có tội hay vô tội được quyết định nếu thông tin DNA cho thấy mối liên quan giữa nạn nhân và can phạm.  "Sự kiện" khoa học kết thúc tranh căi.

 

Làm thế nào chúng ta biết khoa học là thực?  Như đa thấy, chúng ta biết v́ khoa học hiệu ứng!  Chân lư được định nghĩa không phải dựa vào mối tương quan với thần thoại hay Biểu Mẫu, hay, thay v́ thế, dựa theo sự nhất quán  nội bộ bên trong một văn mạch đặc biệt hay "tṛ chơi - game", nhưng chỉ dựa theo những kết quả của nó mà thôi. Những phương pháp khoa học - kết quả thực nghiệm chứng minh tiên đoán và kiểm soát - đă thay đổi thế giới, loại bỏ một số bệnh, giúp nông nghiệp sản xuất nhiều hơn, và cho chúng ta khả năng truyền thông tức khắc toàn cầu. Những tranh căi liệu người ta có nên đi theo Phật hay Chúa, những giá trị của Shakespeare hay Picasso, và mức độ công lư khả thể trong các quốc gia tư bản và xă hội chủ nghĩa; những tranh căi như thế là bất tận và không có kết luận.

 

Ngược lại, việc loại bỏ bệnh đậu mùa và khả năng bay xuyên đại dương là không thể chối căi được.  Ít ai ngạc nhiên khi thấy rằng h́nh như, với nhiều người, khoa học là hệ thống tư tưởng duy nhất có thể sản sinh được chân lư đích thực và vĩnh cửu.  Vật lư gia Gerald Holton cho rằng "Lịch sử khoa học là lịch sử duy nhất có thể minh họa tiến bộ của nhân loại.  Thực vậy, tiến bộ không có ư nghĩa dứt khoát và không thể tra vấn trong những bộ môn nào khác hơn là bộ môn khoa học."

 

Khoa học có khả năng không những hiểu mà c̣n chứng minh cải tiến được những điều kiện tốt hơn; khả năng đó cung ứng một căn bản cho ư niệm về tiến bộ. Ư niệm về tiến bộ dự phóng một tự truyện trong đó nhân loại đă tiến

từ những nguồn gốc sơ khai, bây giờ đang tiến nhanh qua khoa học và khai sáng chính trị, và sẽ tiếp tục tiến trong tương lai có thể tiên liệu được.  Chúng ta từng sống trong hang động; bây giờ chúng ta sống trong những căn nhà có máy điều ḥa.  Chúng ta từng ăn trái và rể; bây giờ chúng ta ăn sau tươi và trái cây nhập cảng trên toàn cầu.  Chúng ta từng truyền thông bằng giấy da trao tay; bay giờ chúng ta truyền thông bằng email, thư tín lập tức (instant messaging), và điện thoại tay.

 

Tiêu đề về tiến bộ của nhân loại có một số hệ luận (corollaries).  Thứ nhất, tiến bộ tương quan với quá tŕnh tích lũy chậm của kiến thức liên tục xây dựng trên chính nó.  Thứ hai, sự thu thập kiến thức và tiến bộ có được đi theo cấp số cộng và một chiều.  Một khi biết được một điều ǵ, một khi nhân loại khám phá ra những "sự kiện" cố hữu trong cơ cấu của thên nhiên, kiến thức đó là thường hằng và không thể đảo ngược được. Vị thần không thể bỏ lại vào lọ được. Thứ ba, và rất quan trọng, sự thu thập kiến thức chỉ có con người mới có qua trực giác và tài nghệ.  Thông qua khoa học, nhân loại không c̣n phải thụ động chờ đợi sự can thiệp của thần thánh hay cảm hứng.

 

Trong khi vị linh mục thuyết phục mọi người cam chịu số phận của ḿnh, hay hiểu nó một cach khác đi, th́ khoa học gia đi theo một phương pháp nhằm khắc phục thân phận.  Niềm tin vào đấng thiêng liêng được thay thế bởi niềm tin vào khả năng của nhân loại có thể thay đổi sự vật cho tốt hơn. Cầu nguyện được thay thế bằng chủng ngừa, ghép bộ phận, và sát trùng. Khi bị đặt trong một thế giới sụp đổ và không hoàn chỉnh, cuộc sống của chúng ta được dần dần cứu văn và thỏa măn qua sự phát triển của trí thức nhân loại.  Nếu khoa học nói với chúng ta rằng chúng ta sống trong một thế giới trung lập, lănh đạm, ư thức hệ về tiến bộ du nhập lại cứu cánh bằng cách nói rằng chúng ta đang đi trên một hành tŕnh của khám phá và cải thiện để đến một

cứu cánh tốt hơn.  Các khoa học gia cảm thấy như họ đang thực hiện những khám phá, không chỉ thay đổi những viễn tượng hay lập trường của họ.  Động tác nhỏ nhất của khoa học gia, giam ḿnh trong pḥng thí nghiệm tăm tối, cũng có ư nghĩa, v́ nó đóng góp và tham gia vào tiến tŕnh tiến bộ của nhân loại.  Ít ai ngạc nhiên khi thấy rằng tiến bộ, với những "phép lạ" khoa học do con người tạo ra, đă được mô tả bởi nhà phê b́nh xă hội Christopher Lasch như là "tín ngưởng hiệu ứng của nền văn minh của chúng ta."

 

Tín ngưởng trong quyền năng cứu văn của khoa học và sự tiến bộ có thể chứng minh được của nhân loại có hai hệ quả tương quan với nhau.  Thứ nhất, nghị lực, năng lực, và hiệu ứng của khoa học đă thành công trong việc thuyên chuyển những quan tâm và tụ điểm của các nỗ lực từ thế giới thần thoại hay triết học sang thế giới nầy. Càng lúc càng tăng, sự thỏa măn của con người được định nghĩa duy nhất trên phương diện thế tục, nghĩa là, vật chất. Để trả lời câu hỏi về Thượng Đế, bất tử, ư nghĩa, mục đích, hay những vấn đề siêu h́nh khác, khoa học ban đầu nói rằng những câu hỏi nầy thuộc bên kia vật lư và lư trí con người.  Do đó, thiên nhiên và tôn giáo tạo nên hai vũ trụ riêng biệt, nói một cách ẩn dụ, một cuốn sách về thiên nhiên và một cuốc sách về Thượng Đế, có thể t́m hiểu được, một do khoa học và một do tín ngưởng.  Đó không phải là khoa học chưa biết ǵ về các vấn đề tín ngưởng; khoa học không thể biết.  Khoa học chỉ đề cập những vấn đề phù hợp với những phương pháp của nó mà thôi.  Vật lư không thể quyết đoán về siêu h́nh và ngược lại.

 

Sự thỏa hiệp song lập giữa khoa học và tôn giáo tỏ ra không đứng vững và yểu mệnh. V́ những ngưồn gốc siêu h́nh của các câu trả lời của triết học không c̣n được ai tin, chính những câu trả lời đó cũng vậy.  Đây là hệ quả thứ nh́ của niềm tin vào khoa học.  Dần dần sự khoan dung ban đầu đối với những h́nh thức trước kia của tri thức, kể cả trí

khôn thần thoại và triết học, đă trở thành lănh đạm, rồi sự lănh đạm nầy lại nhường chỗ cho nhận thức cho rằng những h́nh thức đó là không thích hợp.  Đây là hệ quả thứ nh́ của việc đặt niềm tin vào khoa học.  Theo nhận định chính xác của Appleyard, "Khoa học bắt đầu bằng cách nói rằng nó chỉ có thể trả lời loại câu hỏi nầy và chấm dứt bằng cách tuyên bố rằng đây [những điều mà chúng tôi đă mô tả như những câu hỏi thế nào (how)] là những câu hỏi duy nhất có thể được trả lời."  Làm sao có thể khác hơn được?  Như chúng ta đă thấy, qua định nghĩa, khoa học đề cập những đặc tính nhất đẳng và cố ư thay thế mục đích và những xuyên tạc của những đặc tính chủ quan, nhị đẳng bằng nhân quả, được hiểu như một chuỗi những biến cố vật chất.  Hơn nữa, như chúng ta cũng đă thấy, những câu hỏi có thể được giải quyết và kiểm chứng công khai theo một cách mà những câu hỏi siêu h́nh không thể làm được. Ngoài những vấn để khác, thuyết duy nghiệm muốn đưa ra bằng chứng mà những người khác có thể nh́n thấy và đồng ư.  Bằng chứng trong trường hợp nầy có nghĩa là tất cả những hiện tượng, kể cả những tư tưởng và tin tưởng, đều có thể giải thích được dựa theo vật chất và một chuỗi nhân quả.  Do đó, những câu hỏi như "Tại sao những người tốt lại đau khổ?" hay "Có Thượng Đế hay không?" là những câu hỏi bị đặt ra bên lề, dành để an ủi cá nhân hay được nh́n một cách tiêu cực như những lời nói dối an ủi. Cuối cùng, khoa học - hay chính xác hơn, thuyết duy khoa học - là một tín ngưởng chỉ có một thần, không thể chấp nhận sống chung, tuyên bố như nó từng tuyên bố rằng đó không những là một hướng tŕnh đi đến chân lư, mà là hướng tŕnh duy nhất.  Khi trẻ con bị bệnh, tất cả chúng ta cần penicillin hơn là một giải thích thần học.  Điều mà chúng ta muốn là một nguyên nhân, chứ không phải một lư trí.

 

Chúng ta phải sống thế nào?

 

Cuối cùng, chúng ta phải sống thế nào trong thế giới mà

khoa học cho thấy?  Nghĩa là, chúng ta phải sống thế nào trong một vũ trụ thờ ơ, không mục đích của những nguyên nhân vật chất hoạt động theo những định luật máy móc của thiên nhiên, và hoàn toàn xa lạ với những giá trị và hoài băo của con người?  Làm thế nào chúng ta thực hiện được những lựa chọn khi lựa chọn bị giản lượt vào những nguyên nhân sinh học (Darwin), kinh tế - xă hội (Marx), hay tâm lư (Freud)?  Một cách là tin và hành động hướng về sự tiến bộ nhân loại, vật chất, như chúng ta đă ghi nhận. Cái Nguyên Nhân tối hậu hay Biểu Mẫu và ư hướng thiêng liêng đă bị chối bỏ bởi vũ trụ không mục đích  do khoa học phơi bày được đưa vào trở lại như ư hướng nhân loại.  Ư hướng nhân loại trở nên Biểu Mẫu mà một vật chất vô sinh, vô tư phải thích nghi theo.  Vật chất di chuyển từ tiềm năng sang thực tế dựa theo Biểu Mẫu của ư hướng nhân loại, y hệt như quả đầu trở thành một cây theo Biểu Mẫu cây sồi. Không ai có thể chối căi rằng một nguyên nhân quí phái như chửa bệnh ung thư đưa được mục đích vào cuộc sống của khoa học gia nghiên cứu.  Tuy nhiên, bên kia tiến bộ khoa học đề nghị rằng chúng ta sống trung thực nhất khi chúng ta sống phù hợp với thực tế, theo những sự kiện và định luật thiên nhiên như khoa học đă trưng bày.  Tự do trong một thế giới như vậy là nh́n nhận sự tất yếu.

 

Hai ví dụ ngắn về phương thức chúng ta ḥa giải với thực tế.  Freud nổi tiếng là đúng khi ông giải thích bệnh thần kinh như trầm uất t́nh dục.  Nghĩa là, con người có những khích động t́nh dục; nếu bị đè nén - vào thời của ông, là do những qui luật dạo đức triều Victoria - những khích động nầy gây bệnh thần kinh.  Giải pháp cho bệnh thần kinh là sống phù hợp với thực tế, nghĩa là, tự do bày tỏ những khích động t́nh dục vật chất vốn chung cho tất cả mọi động vật. Điều đúng và lành mạnh được định nghĩa dưa theo hành vi khách quan của con người thay v́ những tiêu chuẩn và cấm đoán chủ quan, đạo đức hay tôn giáo gây tranh căi.  Những luật lệ là vật chất và thống kê thay v́ siêu h́nh.       

Những cấm đoán cổ truyền đối với đồng tính luyến ái hay bất trung hay ngay cả những thủ tục kế toán đáng nghi ngờ tan biến khi thấy những thống kê đưa ra con số những trường hợp đồng tính luyến ái, ngoại hôn.  Nếu những trường hợp đó đủ nhiều th́ chúng trở thành qui luật.  Tương tự, những suy loại lấy từ thiên nhiên, như sự tồn tại của kẻ ưu tú, trở nên căn bản của chính sáh xă hội và kinh tế.  Tóm lại, cái thực sự xảy ra quyết định cho cái phải xảy ra. Các đạo đức gia hàn lâm, nhất là David Hume - có thể lập luận khác, nhưng những vị thành niên đă bày tỏ một xuyên tạc khoa học từ nhiều năm khi họ biện minh những hành động của họ bằng cách nói, "Mọi người khác đều làm như thế."

 

Phong trào bảo vệ môi sinh, mà Appleyard mô tả như một “bán tôn giáo”, là ví dụ thứ nh́ về cách tự ḥa giải chúng ta với thực tế.  Đối  với phong trào môi sinh và những người tranh đấu bảo vệ sinh thái, chúng ta sống trong một hệ sinh thái khép kín, một con tàu không gian mệnh danh là Trái Đất được thể hiện rơ ràng nhất dưới mắt chúng ta do những bức h́nh của trái đất chụp từ mặt trăng. V́ đó là một hệ sinh thái khép kín, những can thiệp vào một phần của hệ thống có những hậu quả trên những phần khác.  Kết quả, những thành tựu bề ngoài của khoa học và kỹ thuật được nhận định như là ảo tưởng và khó đứng vững. Chúng ta chinh phục không gian bằng cách phát minh ra máy nổ và thắp sáng nhà của chúng ta bằng cách đốt than, và trong quá tŕnh đó chúng ta tạo ra những hơi nhà kiếng (greenhouse gases) nâng cao nhiệt độ trái đất.  Chúng ta gia tăng đáng kể nông sản thông qua việc xử dụng những chất sát trùng và phân bón chỉ để khám phá ra rằng chính những hóa chất nầy là nguyên nhân gây ung thư.  Thiên nhiên là một hệ thống tự động, phức tạp, và được quân b́nh một cách tế nhị.  Những nỗ lực của con người để kiểm soát hay chế ngự nó tạo nên một sự nổi loạn chống lại Mẹ Thiên Nhiên và dứt khoát chung qui làm rối loạn cái tổ duy nhất của chúng ta.  Chính bên trong hệ thống khép kín nầy sự

ḥa giải của chúng ta với thực tại trở nên một mệnh lệnh thiết yếu, “tôn giáo”.  Appleyard mô tả mối tương quan giữa phong trào bảo vệ môi sinh và một h́nh thức của ư nghĩa tôn giáo như sau:

 

Đối với người của phong trào môi sinh, một ngày của họ có thể cũng tràn đầy ư niệm tôn giáo như một ngày của một đạo sỹ.  Ông ta có thể lựa chọn thực phẩm để tránh những hóa chất, sản phẩm nhà máy, và nguồn gốc tai hại.  Ông có thể gạt bỏ việc đóng gói cầu kỳ, phục chế có ư thức những bao ny lông, và đi bộ hay đi xe đạp thay v́ đi xe hơi.  Ông có thể chiêu mộ tín đồ, vận động và biểu t́nh…

…Đối với người của phong trào môi sinh, thế giới bị phủ đầy những điềm gỡ;  nó được phong phú hóa với ư nghĩa như trong nhản quan của một vị thánh.  Trên hết, đó là một thế giới, một khối thống nhất, ngược hẳn với một đống dữ kiện phân tán, kho hiểu gồm những sự kiện do khoa học hay nghệ nhân hiện đại cung ứng.

…Đối với người của phong trào môi sinh, sự lụa chọn giữa giấy và nhựa là một vấn đề đạo đức, mang đầy ư nghĩa,  Sự hấp dẫn của phong trào môi sinh là:  Trong một vũ trụ trung lập không có giá trị cố hữu hay cứu cánh, phong trào đó cung ứng những giá trị và ư nghĩa phổ quát. Cứu cánh là sự tồn tại của con người. Đây là một mục đich mà tất cả chúng ta đều đồng ư.  Cùng với niềm tin vào tiến bộ, phong trào môi sinh có lẽ là niềm tin rất rơ vào một tinh thần khoa học. Bất luận căn bản văn hóa, xă hội, hay kinh tế của chúng ta là ǵ, tất cả chúng ta đều có liên quan trong sự tồn tại của hành tinh duy nhất cưu mang chúng ta.  Và cũng như những niềm tin khác, trách nhiệm của chúng ta là hạ thấp những cái tôi ngạo nghễ và tuân thủ quyền uy của chân và thiện, trong trường hợp nầy là thực tế khách quan, phổ quát của thiên nhiên và những mệnh lệnh của nó như được khoa học phơi bày mỗi lúc một nhiều. Chúng ta hoàn thành chân lư trong phạm vi mà những tư tưởng của chúng ta tương ứng chặt chẽ hơn, không phải với những câu

chuyện thần thoại hay Biêu Mẫu của triết học, mà với hoàn cảnh thực tế.  Mỉa mai và hồ đồ thay, với khoa học, chúng ta t́m cách kiểm soát để tuân thủ.  Thực tế định nghĩa những ǵ chúng ta phải làm.  Sự kiện thắng những ham muốn chủ quan, riêng tư, cung ứng một hướng dẫn quyền uy cho những hành động của chúng ta, và thông tri sự liên kết của chúng ta với một cộng đồng nhân loại phổ biến.

 

Tinh thần khoa học càng lúc càng bị chỉ trích.  thuyết hậu hiện đại (postmodernism), như tên gọi cho thấy, là một nỗ lực di chuyển sang bên kia thuyết hiện đại và những giả định khoa học của nó.  Tuy nhiên, nói là thế, thuyết hậu hiện đại phần lớn bị giới hạn vào một nhóm nhỏ những khoa học gia, sử gia, và triết gia.  Đa số khoa học gia và kỹ sư, cũng như đa số nói chung, vẫn duy tŕ niềm tin hiện đại căn bản cho rằng một thế giới khách quan hiện hữu "ngoài kia", và cách tốt nhất để khám phá thế giới đó là bằng những phương pháp luận của khoa học.  Trong số bốn tinh thần mà chúng ta đang xem xét - thần thoại, triết học, khoa học, và hậu hiện đại - tinh thần khoa học là một tinh thần mà hầu hết những người có học đang sống ngày nay chấp nhận và xử dụng.  Những đặc trưng bổ sung của tinh thần đó sẽ được tŕnh bày trong phần bàn luận ở chương kế tiếp về tinh thần hậu hiện đại đang mới trổi dậy. Tuy nhiên, trước khi đi xa hơn, chúng ta cần đặt ra với tinh thần khoa học những câu hỏi mà chúng ta trước đây đă hỏi với tinh thần thần thoại và triết học: (1) Chúng ta biết ǵ? (2) Làm thế nào chúng ta biết? (3) Tinh thân khoa học xem nhẹ điều già và chú trọng điều ǵ?  (4) Tinh thần có ǵ để nói liên quan đến câu hỏi về ư nghĩa?

 


BỐN CAU HỎI

 

Chúng ta biết ǵ?

 

Điều căn bản nhất mà chúng ta biết với tinh thần khoa học là: Chúng ta có thể thay đổi những hoàn cảnh của chúng ta.

Khi đáp ứng với sự bất măn và ham muốn vật chất, tinh thần khoa học t́m cách, không những hiểu, mà c̣n kiểm soát, hay chính xác hơn, hiểu như một công cụ kiểm soát. Tri thức đối với tinh thần thần thoại có nghĩa là nh́n hiện tại trong ánh sáng của những câu chuyện và lễ nghi thần thoại; đối với tinh thần triết học, đó có nghĩa là nh́n một hoàn cảnh theo những lư tưởng phổ biến hơn và trừu tượng hơn hay những Biểu Mẫu.  Với Aristote, tri thức cao nhất có nghĩa là lănh hội cứu cánh hay mục đích. Ngược lại, tri thức đối với tinh thần khoa họ có nghĩa là khám phá những thực tại vật chất đơn giản hơn và có trước trong thời gian và chuỗi những bước gây ra một biến cố phải xảy ra. Hay nói cách khác, tinh thần khoa học hỏi thế nào (how) chứ không phải tại sao (why). Đối với tinh thần khoa học, biết cái ǵ tức là biết những nguyên nhân của nó, chứ không phải mục đích, lư do, hay cứu cánh của nó? Cũng như thần thoại và những Biểu Mẫu Platon, những định luật thiên nhiên do khoa học khám phá ra có thể phổ quát và phi thời gian, nhưng không như đối với tinh thần thần thoại và triết học, đối với tinh thần khoa học, giá trị của những định luật đó không nội tại mà là khí cụ (instrumental). Tri thức luôn luôn phục vụ cho thay đổi và kiểm soát. Hay để đổi cách nói của Marx, mục đích của tri thức không phải là để hiểu thế giới mà để thay đổi nó.

 

Khi đi t́m chân lư thực dụng, tinh thàn khoa học biết rằng vũ trụ được bao gồm những đặc tính nhất đẳng và nhị đẳng.  Một mặt, những đặc tính trừu tượng, nhất đẳng về kích thước, h́nh thể, số lượng, trọng lượng, và chuyển động là khách quan, vô ngă, vật chất, và phổ quát. Đây là những đặc tính thể hiện một trật tự cố hữu máy móc và nhân quả được diễn ta tốt nhất với ngôn ngữ nhất quán và mô tả của toán học. Mặt khác, có những đặc tính thứ hệ nhị đẳng về thị giác, vị giác, xúc giác, và khứu giác, và những hiện tượng cảm xúc của con người, những giá trị, và tư tưởng.  Tinh thần khoa học biết rằng lănh địa của những đặc tính

nhị đẳng là chủ quan và "ít thực hơn", v́ chúng được gây ra và giải thích bởi lănh địa vật chất và thực tế căn bản hơn của những đặc tính nhất đẳng.  Những Biểu Mẫu nhân loại của tinh thần triết học - t́nh yêu, đạo hạnh, công lư, vẻ đẹp, Thượng Đế v.v. - được "giải thích xa ra" , cũng như tinh thần thần thoại,  bằng cách truy nguyên chúng về những sự kiện căn bản hơn về chính trị, xă hội, tâm lư, và tựu trung vật chất của chúng.  Nếu những ngẫu nhiên của cuộc sống có thể siêu vượt nhờ vào những thần thoại và tư tưởng phổ quát và phi thời gian hơn, th́ khoa học t́m kiếm một siêu việt tương tự bằng cách khám phá những định luật thiên nhiên phổ quát và phi thời gian ẩn giấu trong những biến cố thay đổi và những cảm xúc của đời sống hằng ngày.

 

Làm thế nào chúng ta biết?

 

 chúng ta biết qua một tiến tŕnh trừu tượng hóa và bằng cách phân biệt những đặc tính nhất đẳng với những đặc tính thuộc hệ và do đó nhị đẳng.  Âm nhạc được trừu tượng hóa và giản lượt vào những ḥa âm toán học; cường độ chủ quan của cuộc chạy buổi sáng của tôi được chuyển dịch thành những định số khách quan được trưng ra trên đồng hồ đo tim của tôi.  Hơn nữa, chúng ta biết v́ tri thức của chúng ta có thể được kiểm chứng qua thực nghiệm, và cuối cùng v́ tri thức đó hiệu ứng.  Trong khi chân lư phần lớn là một h́nh thức của tương ứng đối với tinh thần thần học và triết học, đối với tinh thần hiện đại, nó dứt khoát là thực dụng và khí cụ.  Tri thức trừu tượng của khoa học và toán học được kiểm chứng trong thế giới cảm giác hằng ngày của chúng ta.  Chúng ta biết v́, qua quan sát, đo lường cẩn thận, và qua những lư thuyết, chúng ta có thể chứng minh với những thí nghiệm được kiểm soát, có thể lặp đi lặp lại mà chúng ta có thể tiên liệu và kiểm soát những hoàn cảnh vật chất của chúng ta.  Chúng ta biết v́ uy quyền của tri thức nằm trên sự đồng thuận xuyên chủ quan (intrasubjective agreement) của những sự kiện và những kết quả thực dụng. Việc tranh căi liên quan đến những giá trị của Shakespeare hay quyền phá thai có thể bất tận, nhưng không ai có thể phủ nhận chân lư, sự kiện, theo đó máy bay bay và chủng ngừa đă loại bỏ bệnh đậu mùa.

 

 Tinh thần khoa học chú trọng cái ǵ và không chú trọng cái ǵ?

 

Đương nhiên, theo quan điển của tinh thần hiện đại, tinh thần khoa học không bỏ qua cái ǵ cả.  Khoa học trung thực mô tả thế giới, trong tổng thể, và phủ nhận giá trị của những phương án tri thức khác.  Tuy nhiên, đối với những ai từng chịu ảnh hưởng của tinh thần thần thoại hay triết học, khoa học bỏ qua và không thể trả lời những câu hỏi liên quan về giá trị, mục đích, ư nghĩa và phẩm chất cuộc sống.  Khoa học bỏ qua câu hỏi tại sao (why) để chọn câu hỏi thế nào (how), và bỏ qua vấn đề mục đích để chọn vấn đề nhân quả.  Làm sao có thể khác hơn được trong một thế giới đơn thuần là thế? Nhưng sau khi nói thế, liệu câu hỏi tại sao có thể bị gạt bỏ hay xem thường mà khong gây ra hậu quả nào?

 

Những giá trị khoa học là chuyên ṛng khí cụ (instrumental).  Nghĩa là, tri thức, từng là một cứu cánh trong chính nó, trở thành chỉ c̣n là một phương tiện của năng lực (power). Nhưng năng lực cho mục đích ǵ? Sự bất lực của khoa học không thể phân xử những mục đích hay cứu cánh được phơi bày trong những mâu thuẩn đương thời.  Nếu việc bảo tồn sự sống tự nó là cứu cánh, khoa học có thể để một bệnh nhân già hay sắp chết trên một trên một máy hô hấp và xử dụng những phương tiện hữu hiệu để cứu mạng.  Mặt khác, nếu cứu cánh là chỉ bảo tồn chuyên biệt một cuộc sống đáng sống th́ khoa học sẽ cung ứng phương tiện cho một bệnh nhân chết đúng qui cách. Tương tự, khoa học có thể nói với chúng ta làm thế nào để chế tạo một hỏa tiển lên mặt trăng hay một hệ thống chuyên chở nhanh, nhưng nó không thể nói với chúng ta nên dùng tài nguyên quốc gia để tài trợ cho dự án nào.  Khoa học có thể dùng thăm ḍ để nói rơ với chúng ta rằng dự án lên mặt trăng th́ giá trị hơn so với một hệ thống chuyên chở nhanh, nhưng không thể chỉ định con người phải đánh giá cái nào nhất.   Hay nói cách khác, khoa học không thể trả lời những câu hỏi khăng khăng, ấu trĩ mà Tolstoy đă hỏi: tại sao để làm ǵ?

 

Đương nhiên, câu hỏi tối hậu tại sao là "Tại sao chúng ta ở đây?"  Phải chăng sự sống, sự sống của tôi và sự sống trên trái đất, có một mục đích hay ư nghĩa? Sự khác biệt giữa giàu  và nghèo, giữa đẹp và xấu, có một ư nghĩa ǵ không? Có một mục đích nào phía sau chăng? Chúng ta có thể trách cứ Aristote và Ky Tô giáo đă liên kết ư nghĩa với mục đích và một cứu cánh tối hậu; hay chúng ta có thể trách cứ khoa học đă làm cho cuộc đời có vẻ vô nghĩa bằng cách chối bỏ những cứu cánh đó như chỉ là chủ quan và siêu h́nh.

 

Cuối cùng, khoa học không thể thực hiện được những phân biệt về phẩm.  Sự chú trọng của nó trên những đặc tính nhất đẳng đưa đến sự xem thường tương ứng đối với những đặc tính nhị đẳng, chủ quan vốn thêm màu sắc và cảm xúc vào cuộc sống.  Với khoa học, thế giới bị lột trần những phẩm chất nhân loại: không có hơn hay kém, không yêu hay ghét, đẹp hay xấu, cứu rỗi hay trừng phạt.  Vũ trụ đơn thuần như thế đó: trung lập, thờ ơ, và không có một giá trị cố hữu hay mục đích hay linh hồn.  Hậu quả, không có ǵ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, hay cấm đoán. Hơn hay kém được thay thế bằng nhiều hơn hay ít hơn. Trong một thế giới hoàn toàn thế tục, chúng ta được phép làm bất cứ điều ǵ có thể làm được và có toàn quyền.  Đối với câu hỏi, "Cái ǵ tốt hơn, một khu rừng già đẹp đẽ hay những công ăn việc làm được tạo ra để phá rừng đó?"  Khoa học không biết nói ǵ.  Hôn nhân có nên nhất thiết định được nghĩa là giữa nam và nữ?  Khoa học có thể nói rơ với chúng ta rằng nhiều người là đồng tính, nhưng nó không thể nói rằng những hội đoàn không đồng tính th́ tốt hơn là những hội đoàn của những người đồng tính.  Bạn không thích thân thể của bạn?  Khoa học có thể cho bạn những bộ ngực lớn hơn hay một cái bụng nhỏ hơn, nhưng nó không thể nói với bạn sống tự nhiên là tốt hơn hay không tốt hơn.  Hơn và kém, tốt và xấu  nằm bên ngoài ngữ vựng mô tả của toán học.  Tiêu chuẩn là một tóm lượt thống kê, không phải là một mệnh lệnh.

 

Khoa học và ư nghĩa

 

Trước hết, tinh thần khoa học nói rằng sự vô nghĩa (meaninglessness) là trung lập trong diển tả. Vũ trụ không có ư nghĩa, phương hướng, cứu cánh, hay mục đích nội tại.  Thế th́ sao?  Đó chính là những sự kiện; đó chính là cách thức của sự vật.  Hăy thỏa hiệp với nó. Xử dụng từ vô nghĩa với những ngụ ư tiêu cực, kinh qua vô nghĩa với một mất mát hay ăn năn là hoài vọng những thế giới chủ quan, nghĩa là ảo tưởng được tạo ra bởi tinh thần thần thoại và triết học, kể cả những nguyên nhân tối hậu của Aristote như những cứu cánh.  Mệnh lệnh của tinh thần khoa học là phải thỏa hiệp với thực tế.  Trong thế giới trưởng thành, chúng ta cần gạt bỏ những ngông cuồng ấu trĩ và sống không cần nhờ đến, hay biện minh bằng, những thần thánh siêu việt, phi vật chất, những ư thức hệ, giá trị, và mục đích. Vong Thân và Phi Lư có nghĩa là một sự thất bại trong việc thỏa hiệp với thực tế.

 

Nếu chúng ta t́m được ư nghĩa, nó sẽ trổi lên duy nhất trong thế giới nầy mà thôi, theo một trong ba cách.   Cách thứ nhất mà nó có thể trổi lên là thông qua sự dấn thân  và tuân thủ với những theo đuổi vật chất  và thực tế, không có ǵ khác. Trong tinh thần nầy, xin nhớ lại sự dấn thân của khoa học vào tiến bộ và phong trào môi sinh. Khi đồng hóa và tham gtia vào tiên bộ hay phong trào môi sinh, chúng ta trở nên một phần của một cái ǵ phổ quát hơn và rộng lớn hơn là những cái tôi của chúng ta theo một nghĩa tương tự như chúng ta tham gia vào một tôn giáo.  Trên một b́nh diện cá nhân hơn, tiến bộ và dấn thân vào thế giới nầy có thể được xem như vào một căn nhà rộng lớn hơn hay một chiếc xe mạnh hơn.  Vươn ḿnh lên cùng xă hội, thăng tiến nghề nghiệp, và đưa con vào những trường tốt tức là cung ứng những Biểu Mẫu của chính chúng vê hướng nghiệp và ư nghĩa.

 

Tinh thần khoa học - và cuộc sống kỹ nghệ hiện đại mà nó hỗ trợ - cũng gây nên một phản ứng chống đối. Trào lưu lăng mạn chấp nhận thế giới do khoa học để lại bằng cách thỏa hiệp với thực tế, có điều là, trong trường hợp nầy, thế giới mà họ t́m cách thỏa hiệp là một quan niệm lăng mạn hóa về thiên nhiên.  Thiên nhiên trở nên một nơi ẩn trú và ư nghĩa nhằm phản ứng lại bối cảnh phi nhân bản, thờ ơ, biểu tượng của kỹ nghệ hóa.  Phong trao nầy được tóm lượt một cách đẹp đẽ trong tựa đề cuốn sách của M. H. Abrams,

Natural Super-naturalism. Trong tác phẩm cổ điển đó về lịch sử văn học và trí thức, Abrams cho rằng thi ca lăng mạn t́m nguồn an ủi trong Tha Nhân, khi Tha Nhân đó được diễn tả trong thế giới “thiêng liêng một cách tự nhiên" được t́m thấy trong thiên nhiên.  Nếu tinh thần khoa học đă hạ bệ được h́nh tượng địa phương hóa và nhân cách hóa của Chúa Trời, Moses, và Jesus, th́ một thần linh phổ quát có thể được tri giác trong thiên nhiên.

 

Cách thứ hai mà tinh thần khoa học t́m được ư nghĩa trong thế giới nầy là bằng cách giải những tṛ chơi (puzzles). Như chúng ta đă thấy, khi loại bỏ những cứu cánh và khả thể của siêu việt, tinh thần khoa học chú trọng những lạc thú sẽ t́m được trong thế giới nầy.  Bao lâu, và chỉ bao lâu, câu hỏi về ư nghĩa bị dập tắt và gạt bỏ, tinh thần khoa

học t́m được lạc thú nội tại trong khi giải những tṛ chơi của thên nhiên tương tự như cách mà lạc thú có thể t́m được khi giải tṛ chơi Sudoku hay chơi cờ.  Trong những trường hợp đó, tinh thần khoa học không mong hoàn thành những cứu cánh thực dụng; nó chỉ quan tâm đến thách thức giải được tṛ chơi lập tức.