Phỏng theo The
Search for Meaning – Dennis Ford
Trịnh Minh Huy
** Xin lưu ư: chữ “tôi - Tôi” trong tài liệu
nầy ám chỉ Dennis Ford.
** Hai từ Thần
thoại và huyền thoại
trong trong chương nầy có thể dùng thay nhau.
Chương Hai: Thần thoại và Ư Nghĩa
Điều bí mật nhất
không phải là chúng ta bị ném một cách tùy tiện
giữa cơi bao la của trái đất và thiên hà của các
tinh tú, nhưng trong nhà tù nầy chúng ta có thể vẽ lên
những h́nh ảnh của chúng ta đủ sống
động đề phủ nhận sự hư vô
của chúng ta.- Maurice Friedman
Những đặc tính
của thần thoại
Nói
về thần thoại tức là đă xúc phạm nó
rồi.
Bạn thử tưởng tượng
đang xem một cuốn phim hành động hay một hài
kịch lăng mạn trong rạp hát ở địa phương
của bạn. Đó là
một tối thứ sáu sau một ngày làm việc vất
vả, và bạn chủ tâm ngưng mọi hoài nghi hay
chức năng phê phán mà bạn có thể có để
giải trí. Những h́nh
ảnh hấp dẫn của những nơi ngoại
quốc và những nhân vật lập dị theo nhau đi
qua, và bạn bị lôi cuốn bởi những cảnh trí,
âm thanh, và cảm giác mà chúng gợi lên. Sung sướng thay
cho một người đang muốn thư giăn, sự
quyến rũ đủ mạnh để tinh thần có
thể đi từ cảnh nầy đến cảnh khác,
không bận tâm đến những ǵ xảy ra hoặc
tại sở làm hoặc tại nhà. Cái “nên” xảy ra là cái “thực sự”
xảy ra như diễn tiến của cốt truyện
đang thu hút sự chú ư và cảm ứng của bạn lúc
thế nầy lúc thế khác. Điều quan trọng khi
xem phim chung qui không phải là nó có nghĩa ǵ hay nó có chính xác
tương ứng với những biến cố lịch
sử hay không, nhưng, ít nhất trong một thời gian,
nó có thu hút toàn bộ sự chú ư của người xem hay
không.
“Khuynh
hướng tinh thần muốn thấy sự vật
một cách chính xác, sự vật nào ra sự vật đó”
là đặc tính thứ nhất của cái mà học
giả cổ điển John H. Finley gọi là “tinh thần
anh hùng – heroic mind”. Mặc dù
Finley khai triển khái niệm để giải thích
những tác phẩm của Homer, tinh thần anh hùng hay thần
thoại cũng áp dụng để giải thích kinh
nghiệm xem phim. Việc
xử dụng từ “thấy
- see” ở đây không phải là ngẫu nhiên, v́ phim ảnh là những hành
động vật lư hiển thị và biểu thị,
diễn tiến như những động tác trong thời
gian theo một tŕnh tự những biến cố do
người hay tác nhân. Câu
hỏi thích hơp để hỏi về thần
thoại không phải là “Nó có nghĩa là ǵ” nhưng “Cái ǵ
xảy ra kế tiếp và nó chấm dứt ra sao?” Đầu óc thần thoại là
một đầu óc muốn nh́n về phía trước
đúng hơn là nh́n tại chỗ.
Bất kỳ tư tưởng lớn hay ư hướng
lớn mà một giám đốc phim trường có thể
có chỉ có thể được diễn ta qua cảnh
trí, âm thanh, tự truyện, và cái tŕnh tự của cảm
ứng nơi chúng ta trong khi theo dơi nhân vật nầy
đến nhân vật khác.
Nếu một ư tưởng hay chủ đề không
thể được thấy và diễn tả bằng
hành động th́ nó không thể được nói ra; tất
cả những ǵ chúng ta có với thần thoại là chính
câu chuyện và cái mà Finley gọi là “bề mặt lóng lánh
của sự vật.”
Nếu
đến gần bề mặt của sự vật, thần
thoại không những chỉ là cảm quan và phát triển
theo thời gian; nó cũng mang tính cách bách khoa và đa nguyên.
Khi nói về đầu óc huyền thoại, Finley cho
rằng đâu óc đó không được “mài cùn” để
thích nghi với một hệ khái niệm, nhưng lại
mô phỏng những cảnh trí và động tác đang
xảy ra, bất luận vô trật tự đến
cỡ nào. Trong một thế
giới của những đặc thái sáng ngời (bright
particulars), kinh nghiệm chiếm ưu thế hơn
những khái niệm hay ư tưởng. Những ư tưởng tự giác
của tôi về bạo
động, chẳng hạn, lư ra phải ngăn cấm
tôi không được xem những màn sát nhân hàng loạt mà
tôi chứng kiến trên các chương tŕnh truyền h́nh và
phim ảnh. Tương
tự, nếu tôi phải hỏi cái ǵ tạo nên một
cuộc sống xứng đáng (worthwhile), huyền thoại
sẽ trả lời, thực sự chỉ có thể
trả lời, với những câu chuyện như câu
chuyện của Jesus hay Gandhi, Mẹ Teresa hay Martin Luther King
Jr. Tuy nhiên, nhận
định và phân loại những cuộc sống nầy
như là “xứng đáng” đă là một bước lùi ra
khỏi huyền thoại, v́ “xứng đáng”, như
một phạm trù trừu tượng, không thể
được thấy hay kể. Đầu óc thần
thoại – theo lời của Eric Havelock – “đơn
thuần nói về một đời sống mà không biết ǵ về nó
cả…điều mà họ nói chỉ đơn thuần
vẽ ra những bức họa bằng lời liên quan
đến những dáng dấp [trong trường hợp
nầy là những cuộc đời] trong cả ngàn hoàn
cảnh hỗn độn khác
nhau.” Đầu óc thần thoại là đầu óc trong
đó phương hướng được xác
định bởi những ranh giới, đúng hơn là
bởi một hệ thống xác định vị trí
tổng quát và một hệ thống trừu tượng
của kinh tuyến và vĩ tuyến: “Đi đến cái
nhà đỏ, rẽ trái, đi thẳng cho đến khi
gặp tiệm McDonalds, rẽ trái…” Không thể có một
tóm lượt mang tính chất khái niệm hay chủ
đề liên quan đến một thần thoại, v́
yếu tính của nó nằm trong những đặc thái
sáng ngời.
Nghịch
lư thay, mặc dù được ẩn thân như thế
trong những đặc thái sáng ngời, thần thoại
lại giả định một mặt phẳng khác,
thiêng liêng, khác biệt và có trước thế giới
trần tục hằng ngày của chúng ta về mặt siêu
h́nh. Không chối bỏ những
ngẫu nhiên của thế giới trần tục nầy,
đầu óc thần thoại nh́n sự vật qua một
lănh địa thiêng liêng và t́m hiểu lănh địa đó.
Đối với đầu óc thần thoại, mọi
vật trên thế giới đều có thể trong
suốt theo chiều hướng siêu việt. Học
giả về tôn giáo và thần thoại, Mircea Eliade,
đề xướng danh từ hierophany để mô tả những trường
hợp đó – tức trường hợp được thần
thoại kể lại – khi phạm trù thiêng liêng – tức
một “thực tại không thuộc thế giới
của chúng ta” – được thể hiện trong
những sự vật và biến cố trong thế
giới tự nhiên, đương nhiên của chúng ta. Đối với đầu óc thần
thoại, thiên nhiên đồng thời vừa trực
tiếp trước mặt chúng ta vừa là một biểu
hiện của một cái ǵ khác, vừa thực vừa mang
ư nghĩa. Qua thể hiện phạm trù thiêng liêng, bất
kỳ một vật thể nào cũng có thể
được biến dạng thành một cái ǵ khác, tuy
vẫn c̣n là nó. Eliade nhận
xét, “Một tảng đá thiên liêng vẫn c̣n là một
tảng đá. [Hiển thị mà nói, hay chính xác hơn, theo
quan điểm trần tục của chúng ta] không có cái ǵ
phân biệt nó với tất cả những tảng đá
khác. Nhưng đối với những ai mà tảng đá
tự biểu hiện như là thiên liêng, thực thể
trực tiếp của nó được chuyển vị
sang một thực thể siêu nhiên.” Trong truyền thống
Cơ Đốc Giáo – để nêu lên một ví dụ thông
thường – bánh ḿ và rượu vang cũng là thân thể
và máu của Chúa.
Lănh
địa thiêng liêng theo định nghĩa của thần
thoại có tính cách phổ biến, phi cá thể, phi thời
gian, và siêu việt. Như
thế, nó tương phản rơ ràng với thế giới
trần tục hằng ngày vốn chuyên biệt, cá thể,
và giới hạn bởi thời gian. Những đặc thái sáng
ngời và những mặt phẳng của thần
thoại là không thay đổi và vượt thời gian v́
chúng cũng hiện hữu trong một thời gian và không gian thần thoại. Những
cuộc sống của chúng ta thường xuyên thăng
trầm; chúng ta sống với những ngẫu nhiên
của không gian và thời gian.
Không có cái ǵ là thường hằng; chúng ta đến
thế giới nầy một ḿnh và rời nó cũng
một ḿnh. Ngược
lại, thế giới được diễn tả trong thần
thoại là không thay đổi và vĩnh cửu; huyền
thoại không thay đổi; những thần thánh và
diễn viên luôn luôn tŕnh diễn cốt truyện cùng
một cách giống nhau. Không
có những kết cuộc bất ngờ; không có tiến
bộ Oedipus luôn luôn
cưới mẹ của ông; Ulysses luôn luôn trở về
nhà; Rhett luôn luôn nói với Scarlett rằng ông không cho chút ǵ
cả. Điều quan trọng đối với thần
thoại không phải là tính mới mẻ, sáng tạo, hay
tân kỳ mà là tính chất cũ và điển h́nh. Bài thánh ca cổ truyền nói
đúng: “Hăy kể cho tôi câu
chuyện cũ, thật cũ.”
Khi
tự đồng hóa với những phiên bản phổ
quát và bất biến thiên của thần thoại, khi nh́n
tảng đá cũng như một biểu hiện của
vĩnh cửu, chúng ta hoàn tất siêu việt. Chúng ta được đưa
lên khỏi đời sống b́nh thường của chúng
ta. Chúng ta nh́n thấy mốt cái
ǵ cố định và trường cửu trong đám
thăng trầm phổ quát.
Ngẫu nhiên và thay đổi được nh́n
thấy thông suốt. Kết
quả, thực tại hằng ngày trở nên phụ tùy cho
thực tại thường hằng và vĩnh cựu
của phạm trù thiên liêng.
Tôi sẽ mô tả sau nầy làm thế nào triết
học thỏa măn được nhu cầu của con
người về trật tự và ổn định
với những phạm trù và tư tưởng trừu
tượng – phổ biến và phi thời gian. Ở
đây, tôi muốn nói rằng thần thoại thỏa măn những
nhu cầu giống hệt như thế, không phải qua
khái niệm, mà bằng cách quay trở về và đồng
hóa với những phiên bản thần thoại bất
biến. Cái thường hằng và bất biến chính là
huyền thọai, và lănh địa thiêng liêng mà thần
thoại định nghĩa.
Phiên bản huyền
thoại không phải là tư chất với tôi hay
với thời gian và không gian; đó không phải là câu
chuyện “của tôi”.
Ngược lại, huyền
thoại là phi cá thể và phổ quát; chúng cũng
ở đó cho những ai nghe và đồng hóa với
chúng. Không tùy thuộc vào
một nơi chốn cụ thể nào hay một thời
gian cụ thể nào, chúng hiện hữu trong một không
gian và thời gian thần thoại, nghĩa là, phổ quát
và vĩnh cửu. Câu chuyện
vể Christ hay Phật là một, không cần biết tôi là
ai, ở đâu hay hoàn cảnh lịch sử của tôi là
ǵ.
Những
đặc tính của thần thoại có thể
được minh họa với một ví dụ
đương thời. Chúng ta cứ thử xem xét phong trào
tranh đấu dân quyền tại Mỹ. Với nhiều người,
đây đồng thời vừa là một phong trào xă
hội vừa là một biểu hiện của thần
thoại về Exodus (Di hành khỏi Ai Cập). Những nhà lănh đạo của
phong trào dân quyền – vốn dựa vào những giáo hội
Mỹ-Phi – rơ ràng đồng hóa những cuộc
đấu tranh của họ với phiên bản thánh kinh
của một dân tộc bị áp bức dành tự do
từ Ai Cập. Khi thực
hiện sự liên kết nầy, những người tham
gia trong cuộc đấu
tranh dân quyền trở nên đương thời
với không gian và thời gian sơ khai đó. Trong khi làm như vậy, hai
sự kiện được hoàn thành. Thứ nhất, những
người tham gia có khả năng thoát ly hay vượt
lên thời gian niên đại và thỏa măn hi vọng. Mặc dù sự việc có thể
có vẻ như là vô vọng, vẫn có hi vọng nếu
người ta có thể quay trở lại và sống trong
phiên bản vĩnh cửu nguyên ủy về giải phóng
và Đất Hứa. Và
thứ hai, những người tham gia học hỏi
để biết họ là ai và họ cần làm ǵ bằng
cách sống thực – tái phục – lịch sử nguyên
ủy của Exodus.
Chúng
ta là ai? Chúng ta là một dân
tộc bị áp bức, giống như dân tộc tại
Ai Cập. Chúng ta phải làm
ǵ? Chúng ta phải chống lại
áp bức và di chuyển đến Đất Hứa
giống như người Do Thái. Làm sao chúng ta có thể
trở nên tự do đối trước thành kiến và
áp bức nặng nề về mặt xă hội và kinh
tế? Hi vọng của chúng
ta không luận lư, thực tiển, hay được tính
tóan kỹ, nhưng dựa trên sự đồng hóa của
chúng ta với những người mà Chúa đă giải
phóng trong quá khứ, một cuộc giải phóng mà chúng ta
đang tái phục. Thế giới trần tục nầy
của áp bức , bạo động, và ḱ thị là “không
thực” và tạm thời so với thế giới
thường hằng của thần thoại Exodus. Bất kỳ khi nào chúng ta
thấy ḿnh đi trở về và đồng hóa với
một phiên bản nguyên ủy – dù đó là Eucharist, Exodus,
hay những giai thoại về Cuộc Chiến Tranh dành
Độc Lập của Hoa
Kỳ - khi đó chúng ta nằm trong sự hiện hiện
của thần thoại. Thần
thoại có khả năng kiến thiết và cung ứng
sự ổn định từ giai đoạn nầy sang
giai đoạn khác, v́ bất kỳ giai đoạn nào
cũng có thể bị siêu vượt và liên hệ với
một thời gian và biến cố thần thoại
bất biến. Đối
với những người tham gia trong cuộc đấu
tranh dân quyền, thời gian và hoàn cảnh bị triệt
tiêu nhờ sự che chở của thần thoại Exodus.
Thần thoại - Tin tưởng(Belief)
– Niềm tin (Faith)
Con người bị trục
xuất ra khỏi thực tại của bất kỳ
những ǵ họ làm nếu trái tim của họ không
dấn thân. – William Cantwell Smith.
Dù
sự hiểu biết của chúng ta về những
đặc tính của thần thoại có thể quan
trọng đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn
thiếu một điều thiết yếu nếu chúng ta
không phân biệt giữa hiểu biết về (about) thần thoại và sống một cách thần thoại.
Từ
about hàm ngụ một phân
chia giữa người tri thức (knower) và đối
tượng tri thức (known), một phân chia không có trong thần
thoại đích thực.
Người ta có thể công thức hóa những
biểu đề hoặc đúng hoặc sai về một
vật. Những người
đứng bên ngoài một thần thoại có thể
định nghĩa đặc tính và mô tả thần
thoại, như tôi đang làm ở đây, nhưng biết
về một thần
thoại th́ khác với
sống từ bên trong nó. Tôi có
thể biết tất cả những thống kê của
đội bóng chày Atlanta Braves – bao nhiêu trận
thắng/thua, điểm trung b́nh và chỉ số ERA
của đội – nhưng đó khác với thực
tại của một người ham mộ vốn
đồng hóa với đội bóng và với huyền
thoại bóng chày.
Điểm
phân chia một người ham mộ với một
người hiểu biết về
- một bên trong một thần thoại, một bên ngoài
– là sự đồng hóa về cảm xúc, tái phục mang
tính chất nghi lễ và tưởng tượng. Người ham mộ đồng
hóa với đội bóng và những cầu thủ của
đội. Người ham
mộ sung sướng khi đội thắng và đau
khổ khi đội bị thua.
Tương tự, người sống bên trong
một thần thoại đồng hóa trọn vẹn
với những nhân vật và biến cố của
thần thoại. Eric Havelock
nhấn mạnh rằng, khi được kể lại
hay tŕnh diễn qua lời nói hay nghi thức, thần
thoại Hy Lạp được tái phục, khiến
cử tọa bị đồng hóa với thần
thoại. Cử tọa không những chỉ nh́n biểu
diễn một thần thoại; cử tọa bị
dấn thân qua nghi lễ vào một cuộc tái phục và
đồng hóa với thần thoại. Trong những hoàn
cảnh nầy, cử tọa và người tŕnh diễn
trở nên là một. Bên trong
thần thoại, tôi khong nghĩ về
Achilles ; đúng hơn, tôi hoàn toàn đồng hóa với
Achilles; theo một nghĩa nào đó, tôi trở thành ông ta,
bao lâu tôi tuân theo lời niệm chú.
Sự đồng hóa cuồng tín nầy với
thần thoại triệt tiêu cái tôi riêng rẽ, tự
trị của tôi. Tôi không c̣n
sống “như là” nhưng
trong và bên trong thần thoại.
Sự
phân biệt tuyệt đối quan trọng giữa tri
thức về thần thoại và sống bên trong thần
thoại được nói rơ trong phần tŕnh bày của
Wilfred Cantwell Smith về tin tưởng và niềm tin. Tin tưởng (belief) tương
tự như biết về.
Nó có tính cách vừa biểu đề vừa tạm thời. Tin tưởng là “khái niệm
nhờ đó chúng ta truyền tải sự kiện một
quan điểm được đưa ra, trên
phương diện tư duy, không có một xác định
dứt khoát nào liên quan đến giá trị đúng sai
của nó.” Như thế, tin
tưởng là giản lượt hóa. Tin tưởng một mặt
nằm giữa thuyết hoài nghi tuyệt đối và,
mặt khác, một kiến thức nào đó. Từ bên
ngoài, khi nói về một người nào đó, chúng ta nói
rằng họ tin tưởng, thay v́ biết, Phục sinh
(Resurrection), bốn Chân Lư Quí phái (four Noble Truths), và Red Sox
hơn Yankees. Và, như tất
cả chúng ta đều biết, tin tưởng có thể
đúng hay sai, trong khi kiến thức th́ không thể
chối căi được. Ngược lại, niềm tin
(faith) nâng tin tưởng (belief) lên tŕnh độ tôn
giáo Niềm tin là một
đáp ứng toàn diện, dấn thân cho thần thoại
và đồng hóa với thần thoại vốn triệt
tiêu khoảng cách quan yếu giữa nó và tôi. Chính qua con mắt của niềm
tin mà người ta nh́n thấy bất kỳ những ǵ người
ta thấy, không phải như một biểu đề có
thể đúng hay sai, nhưng đúng như hiện hữu
của sự vật. Niềm tin dấn thân trái tim và linh hồn. Biết về th́ không đủ; người ta phải
trực tiếp thử nghiệm và đáp ứng thông qua
sự tiếp ứng của niềm tin.
Biết
theo nghĩa thần thoại không phải là vô tư và khách
quan nhưng dân thân và ngấm ngầm, tương tự
như sự hiểu biết mà người ta đi xe
đạp, đánh quần vợt, hay chào hỏi một
người hàng xóm. Theo Smith,
người ta không tin một biểu tượng (symbol).
“Đúng hơn, người ta đáp ứng với nó,
người ta ít nhiều thành công đă thấy nó có
nghĩa ǵ, thấy, cảm nhận và cảm xúc bởi nó.” Bên trong thần thoại, tín
đồ khó ḷng tin vào điều ǵ; họ đơn thuần và
tự giác đáp ứng với thế giới mà họ tri
giác với sự tiếp ứng củ thần thoại,
một thế giới mà họ thấy là thực. Những tin tưởng mà chúng ta
quan sat nơi những người khác, đối với
những người trong cuộc, là bất khả thị
và được coi là đương nhiên. Người ham mộ không tin Red
Sox là đội banh hạng nhất; anh ta biết
điều đó. Tín
đố sùng đạo không tin Jesus là Chúa; họ trực
tiếp đối diện Jesus như là Chúa. Thần
thoại mặc nhiên tŕnh bày thế giới có thế nào
nhứ thế ấy, không phải như một khả
thể nào đó.
Tôi
nghĩ Joseph Campbell cho thấy niềm tin có ưu tiên hơn tin tưởng
khi ông viết: “Con
người nói rằng những ǵ tất cả chúng ta
đang t́m kiếm là một ư nghĩa của cuộc
sống. Tôi không nghĩ
rằng đó là những ǵ chúng ta thực sự t́m. Toi nghĩ rằng những ǵ chúng
ta đi t́m là một kinh nghiệm sống thực, sao cho những
kinh nghiệm của cuộc sống chúng ta trên b́nh diện
thuần túy vật lư sẽ có âm hưởng với
hiện hữu và thực tại sâu kín nhất của chúng
ta, sao cho chúng ta thực sự cảm thấy sự
hứng khởi của sống thực. Chung qui chỉ có thế.”
William
Cantwell Smith nhận định rằng sự đáp
ứng toàn diện, dấn thân cho kinh nghiệm về
niềm tin có thể được diễn tả trong
rất nhiều cách khác nhau: Khiêu vũ, âm nhạc, luật
pháp, cũng như bằng lời.
Ông nói, những tin tưởng – tức những câu
nói minh nhiên có chữ về - là
một cách mà người Tây Phương dùng để
giải quyết những câu hỏi về niềm tin. Những câu nói của những tín
đồ mộ đạo liên quan đến những tin
tưởng thực sự là một cách “làm chứng”. Khi người mộ đạo
nói, “Không có Thượng Đế nhưng Allah và Muhammad là
Đấng Tiên Tri,” người đó, theo ngôn từ
của Smith, làm chứng cho những sự kiện y như
ông thấy chúng, “y như những thực tại trong
vũ trụ chứ không phải niềm tin trong
đầu ông…Chứng ngôn xác nhận rằng, theo một
cách nào đó – như nhận thức, vâng lời, và
phụng sự -, ông tự liên hệ ḿnh với một
hoàn cảnh đă hiện hữu, một cách độc
lập và khách quan. Ông ta xác
nhận nó, chứ không phát biểu nó.” Tương tự, nói về thần thoại –
tức về những tin tưởng chứa đựng
trong thần thoại – là nhị đẳng và giản
lượt hóa so với kinh nghiệm nhất đẳng
về sống theo thần thoại. Chúng ta trở nên quan tâm với
những tin tưởng và thần thoại vào thời
điểm thiếu mất niềm tin và không sống
được bên trong thần thoại. Chúng ta bắt đầu tra
hỏi tại sao và để làm ǵ khi niềm tin
và thần thoại trở nên tự giác.
Thông
thường nhất, chúng ta hoài nghi niềm tin và hoài nghi
những ai sống theo thần thoại, và có lư do chính
đáng. Chúng ta là những
thừa tự của Trào Lưu Khai Sáng, xem niềm tin
như “mù quán”, “ngây thơ”, hay “cuồng tín”, y như theo
ngôn ngữ thông thường, thần thoại hàm ngụ
một câu chuyện “giả tạo”, “gạt gẫm”, hay
“bịa đặt”.
Đức Quốc Xă đă đồng hóa và sống
bên trong huyền thoại về ḍng giống Aryan, y như
những tay khủng bố Hồi Giáo đương
thời dược tác động bởi huyền
thoại cho rằng họ sẽ có một chỗ
đứng danh dự trên trời nhờ sự tuẩn
đạo của họ.
Huyền thoại như thế có thể truyền
tải ư nghĩa và cứu cánh, nhưng nó làm thế với
một giá và một hiểm họa. Đó là cái vẻ bên ngoài. Nhưng từ bên trong, nó không có
vẻ như vậy. Từ bên trong huyền thoại, chúng
ta trở nên đích thực hơn, và cuộc sống càng
mang ư nghĩa lớn hơn khi chúng ta càng đồng hóa
với phiên bản thần thoại. Đối với những
người bên ngoài, Giáo Đường Westminster là một
thắng cảnh du lịch; đối với người
mộ đạo, đó là một nơi thờ
phượng.
Trong
phần tiếp theo, toi sẽ thường xuyên nói về thân thoại. Tuy nhiên, độc giả nên
nhớ rằng chữ about
(về) xuất phát từ chữ bên trong (within), và di chuyển từ chữ nầy
đến chữ khác là rất quan trọng. Trước khi kết thúc, toi
sẽ có dịp đề cập đến những ví
dụ đương thời về những huyền
thoại khả thị hơn và như thế gần
hơn với niềm tin, ngay cả đối với
những ai thường tuyên bố đă được
giải phóng khỏi những
câu chuyện giả tạo, phi lư, độc đoán. Tuy nhiên, trước khi đề
cập đến những đề mục đó,có
bốn nhận xét sau.
Bốn nhận xét
Thứ
nhât, chúng ta hăy ghi nhận rằng đặc tính phi thời
gian và phổ biến của thần thoại là lặp
đi lặp lại. Thần
thoại là lặp đi lặp lại. Những yếu tố lặp
đi lặp lại có thể là nguyên bản, như trong
những thần thoại cổ xưa, hay chúng có thể mô
phỏng và có tính cách điển h́nh. Khi những thần thoại là
điển h́nh, chúng ta không từng bước một quay
lại phiên bản bất biến, phi thời gian, nguyên
ủy, tối đa chỉ như lặp lại một
phiên bản của câu chuyện “gốc”, được khoát trong những
đặt thù của thời gian và nơi chốn của
chính chúng ta. Một nhân vật
nam điển h́nh có gốc gác và tiếng tăm không rơ ràng
xuất hiện từ một nơi mờ mịt
để cứu một dân tộc bất hạnh và
xấu số thường bằng một nghĩa cử
quên ḿnh
táo
bạo. Câu chuyện về
Christ, chẳng hạn, nhưng cả câu chuyện cao
bồi, Captain America, và Luke Skywalker.
Dạng điển h́nh
t́m trật tự qua ám chỉ và những nét tương
đồng gợi ư. Trong phiên
bản kinh thánh, Eden được nối tiếp bởi
Đất Hứa, Jerusalem, Ngôi đền tái thiết, Vua
của Thượng Đế (King of God), và Trời, trong
khi, một cách tiêu cực, Hoang dă và Biển (Wilderness and Sea)
lại được tiếp nối bởi Ai Cập,
Philistines, Babylon, Antioch, La Mă, và Địa Ngục. Với dạng điển h́nh,
chúng ta quay trở lại cùng cái cốt lơi thần
thoại, có điều được ngụy trang đi,
ngay cả khi chúng ta gặp phải cái mà chúng ta tin là
một câu chuyện mới.
Dạng
điển h́nh cho chúng ta thấy rằng chúng tai sai lầm
nếu chúng ta nghĩ rằng tư duy thần thoại
bị giới hạn bởi những câu chuyện về
thần và nữ thần của Hy Lạp hay những
nền văn hóa cổ xưa khác.
Chúng ta bị tự ḿnh lừa gạc nếu chúng ta
nghĩ rằng chúng ta đă bỏ rơi hay khinh
thường những thần thoại ấu trĩ
chỉ bằng cách từ chối những câu chuyện
cổ về Moïse hay thần sấm. Nhưng thần thánh không dễ
dàng bị gạt bỏ. Hăy
nghe câu nói trứ danh của Joseph Campbell, “Sự hiện
thân mới nhất của Oedipus
- tức chuyện t́nh tiếp nối Beauty and the Beast – chiều nay đứng
chờ đèn xanh trên góc
đường 42 và đường Fifth.” Star
Wars nghe giống như một câu chuyện mới liên
quan đến tương lai nhưng thực sự là
một câu chuyện rất cũ từ quá khứ, như
đoạn mở đầu của bộ phim nói với
chúng ta.
Thứ
hai, nhiều câu hỏi mà chúng ta thích hỏi – như, cái ǵ
tạo nên một cuộc đời đáng sống? – không
thể nêu lên trong khi chúng ta đang sống trong huyền
thoại. Từ bên trong
thần thoại, câu hỏi về ư nghĩa không bao giờ
được nêu lên. Tất
cả những ǵ thần thoại có thể làm là kể những
câu chuyện hấp dẫn.
Hỏi những câu hỏi quan yếu hay trừu
tượng về một thần thoại –những câu
chuyện liên quan thế nào hay chúng tượng trưng cho
những ư tưởng ǵ, chẳn hạn – đă là xúc
phạm tinh thần thần thoại. Platon hỏi những câu hỏi
như thế, nhưng đây không phải là những câu
hỏi về
thần
thoại mà về những kẻ phỉ báng thần
thoại, những câu hỏi mà người ta hỏi từ
bên ngoài thay v́ bên trọng.
Thần thoại không phải là chuyện ngụ ngôn
cũng chẳng phải triết học mà là đồng
hóa. Điều quan trọng
nhất về thần thoại không phải là chiều sâu
của những tư tưởng chứa đựng trong
đó – xin nhớ kỹ, tôi đă nói chúng trấn an tinh
thần chính bằng cách nán lại trên bề mặt
của sự vật – nhưng ở chỗ chúng có hấp
dẫn hay không. Nhắc
nhở một người bạn đang khóc sau khi xem The Last Picture Show hay một phim
tương tự nào đó “Đó
chỉ là một truyện phim thôi; không phải thực”
là vừa không nắm được điểm chính
vừa hiểu lầm bản chất của thần
thoại và sự đồng hóa trọn vẹn với
thần thoại.
Thứ
ba, thần thoại tác động do sự đồng hóa
của chúng ta với câu chuyện và những nhân vật
của nó. Với thần
thoại, tiêu chuẩn cho động tác thành công và ư
nghĩa không phải là thực dụng hay tính toán; chúng là mô
phỏng và biểu trưng.
Một cuốn sách hướng nghiệp phổ thông
không đưa ra những thống kê về tiềm năng
thu nhập hay điều tra về yêu cầu; đúng
hơn, đối với những ai đang đi t́m
hướng đi, nó khuyến khích họ với nhân vật
thần thoại nào mà họ đồng hóa. Họ là một anh hùng, một
ảo thuật gia, một
chiến sĩ, hay một học giả? Nếu bạn có thể
đồng hóa với thần thoại “thích hợp” th́ câu
chuện thần thoại sẽ cung ứng chỉ
đạo phải làm ǵ và sẽ trở nên cái ǵ. Sứ mạng trọng tâm của
chúng tôi không phải là phải thành công theo nghĩa thực
dụng mà là đặt niềm tin vào biểu mẫu
thần thoại. Những tín
đồ Cơ Đốc được nhắc nhở,
“Go thou and do likewise (Cứ đi và làm y như thế)” –
nghĩa là, hăy bắt
chước Christ – chứ không phải “phân tích t́nh h́nh và t́m cái ǵ tốt nhất.”
Thứ
tư, và cuối cùng, chúng ta không bao giờ có thể có
một lập luận trừu tượng chống
lại một thần thoại.
Với một thần thoại chúng ta không thể
hỏi nó đúng hay sai (nói cho cùng, đúng và sai là những
khái niệm trừu tượng); chúng ta chỉ có thể
làm chứng câu chuyện có hấp dẫn hay không. Nếu bạn
nghi
ngờ điều nầy, hăy thử lập luận
với một người theo trường phái tụ do
kinh thánh hay một người ham mộ Red Sox. Đầu óc thần thoại là
một đấu óc trong đó, khi đi t́m cái đúng và
thực, niềm tin quan
trọng hơn đối chiếu, tư duy, và hồ
nghi. Khi những cảm t́nh
của chúng ta trọn vẹn dấn thân vào câu chuyện,
chúng ta không bao giờ hỏi liệu chúng ta “tin” nó hay không
hay tra vấn “điểm then chốt” của nó. Bao lâu chúng ta dấn thân trọn
vẹn, chúng ta là những nạn nhân của những
đắm say của thần thoại. Học giả về tôn giáo David
L. Miller nhận định một cách đơn giản: “Tôn
giáo có nghĩa là bị chiếm ngự bởi một câu
chuyện.” Thần thoại
loại bỏ khoảng cách thiết yếu. Nó tác động đến
độ chúng ta thuần phục và vâng theo bùa mê của nó.
Tôi
lặp lại điểm nầy v́ tầm quan trọng
hàng đầu của nó: chúng ta “không tin vào” một thần
thoại theo lối chúng ta có thể tin vào Santa Claus; đúng
hơn, chúng ta trực tiếp gặp phải một mănh
lực hấp dẫn với sức mạnh mà chúng ta không bao
giờ có thể tra vấn. James C. Edwards nhận
định, “Nh́n nhận cái ǵ đó là thần thánh của
ḿnh, tức là đầu hàng với sức mạnh
đó: để ma lực
được tức khắc kinh qua của nó tác
động trên ḿnh, phụng sự sức mạnh đó.
Một tương quan thích hợp giữa thế tục và
thiêng liêng được duy tŕ hay khôi phục khi mănh
lực hấp dẫn trong tim
của sự vật được thừa nhận và sau
đó được phép cai trị.” Cách duy nhất
để thách thức một huyền thoại là
đương đầu với nó bằng một
huyền thoại khác, hấp dẫn hơn. Người ta di chuyển, không
phải từ sai sang đúng, nhưng từ một
thần thánh – hay đội bóng – sang một thần thánh.
Một Thế Giới Mô H́nh
theo Thần Thoại
Trong
chương mở đầu của tập nghiên cứu
cổ điển Myth and Reality,
Mircea Eliade nói rằng ông đang xem xét những xă hội
trong đó – cho đến rất gần đây – những
thần thoại hiện “sống”, nghĩa là chúng là
những mô h́nh cho hành vi
con
người và, khi làm thế, cung ứng ư nghĩa và giá
trị cho cuộc sống. Sự khác nhau giữa một câu chuyện “thuần túy
giải trí” và một câu chuyện thực hay mô h́nh,
nghĩa là thần thoại, như thế mang tính cách
chức năng. Cả câu
chuyện lẫn thần thoại đều là tự
truyện, cả hai đều mang theo những ư nghĩa
của chúng qua diễn xuất và nhân vật, nhưng cái
thứ nhất có thể gạt bỏ v́ bị coi như
“giả tưởng” hay “chỉ là” một câu chuyện,
trong lúc cái thứ nh́ lại có thẩm quyền. Thần thoại có chỉ
đạo, v́ chúng ta đồng hóa với những nhân
vật và động tác hấp dẫn của nó. Do đó,
thần thoại là một tiêu đề kính
cẩn dành cho những câu chuyện có sức mạnh
hấp dẫn và thẩm quyền.
Hiểu
theo cách đó, nhiều nghiên cứu đă đề cập
mối liên hệ giữa truyện, thần thoại, và
hành vi. Câu nói của Oscar Wilde,
“Đời sống mô phỏng
nghệ thuật” là một sáo ngữ, v́ nói thừa
nhận cái ư niệm trực quan theo đó chúng ta học
cách hành động bằng cách nh́n vao người khác,
kể cả những người khác được t́m
thấy trong truyện và tự truyện. Mặc dù đôi
lúc nặng tích chất tâm lư, tác phẩm The Uses of Enchantment của Bruno Bettelheim nghiên cứu làm thế nào
những câu chuyện thần tiên có tác dụng đưa ra
và giải quyết những vấn để căn
bản của đời sống nơi trẻ con và
người lớn, đặc biệt những vấn
đề liên quan đế sự tranh đấu
để trưởng thành.
Cinderella là một truyện phức tạp, với
nhiều chủ đề, kể cả tranh chấp anh em,
sự chiến thắng của điều thiện và thanh
khiết, sự không quan trọng của những
bước đầu khiêm tốn, sự cần thiết
phải thiết lập sự độc lập đối
với cha mẹ, và thành tựu chăn gối, và
nhiều chủ đề
khác. Một mặt, có
người thực sự tin tưởng rằng lừa
dối và hung ác không được ân thưởng; mặt
khác, có loại mặc cảm tiêu cực gọi là mặc
cảm Cinderella (Cinderella Complex), theo đó những thiếu
nữ chờ đợi như là những nạn nhân
thụ động và nhu nhược cho đến khi
họ được giải cứu và thỏa ḷng vơi
một hoàng tử đẹp trai. Những bài học
nầy cuối cùng là tiêu cực hay tích cực là vấn
đề tranh căi và quan trọng, đối với mục
đích của chúng ta ở đây.
Điều quan trọng với chúng ta là Bettelheim cho
thấy những câu chuyện tác động ra sao về
mặt thần thoại bằng cách đánh động trong vô thức
những tư tưởng và hành động của
trẻ con khi chúng bước vào giai đoạn
trưởng thành.
Một
ví dụ thích thú và nhẹ nhàng hơn về cách thức các câu chuyện
ảnh hưởng trên hành vi
được t́m thấy trong tác phẩm của J.
Douglas, Where the Girls Are: Growing Up Female with the Mass Media. Những
người đàn bà học cách cư xử như thế
nào? Chắc chắn từ cha
mẹ, bạn bè, và gia đ́nh của họ, nhưng, theo
Douglas cũng như nhiều người khác,
từ những mô h́nh do thông tin quần chúng cung ứng. Chương tŕnh TV hài The Mary
Tyler Moore Show, chẳng hạn,
vừa xác lập vừa khuyến khích cách thức mà
những phụ nữ “mới” bắt đầu hành
động trong những năm đầu của thập
niên 1970.
Đối với
nhưng ai chưa quen với chương tŕnh nầy, The Mary Tyler Moore
Show minh họa cuộc đời của
một phụ nữ độc thân đi làm, sống
tại Minneapolis.
Đó
có thể nghe như một câu chuyện không đáng chú ư
ngày nay, nhưng, vào thời đó, chương tŕnh đó
đi tiên phong trong việc minh họa cuộc sống
của một phụ nữ độc thân đi làm. Trái với lối minh họa cổ
truyền về phụ nữ trước đó, nhân
vật chính – Mary Richards – được cho thấy đang tự
ḿnh làm điều đó, bên ngoài gia đ́nh và bên ngoài một
hôn nhân ổn định. Cô
không phải là Cinderella đang chờ đợi để
gặp Hoàng tử Hào hoa trong một buổi dạ
vũ. Ngạc nhiên thay, cô
gọi đàn ông để hẹn đi chơi, và cô xua
đuổi những đần ông mà cô không thích. Mary nói rơ rằng cô thích cô
đơn hơn là mất th́ giờ với mộ gă
đần độn chỉ v́ y là một đàn ông. V́ diễn tả được tính
mơ hồ chung quanh vai tṛ càng lúc càng mơ hồ của phụ nữ trong thời
đại, Mary tỏ ra vừa bản lănh vừa nhu
nhược, đôi lúc – thường đồng thời –
vừa khó tính vừa nhu ḿ.
Những khẳng định táo bạo nhất và
đúng đắn nhất của cô tức khắc
được dung ḥa với những nụ cười,
một giọng nói lững lờ, và lối dùng chữ và
câu bổ ngữ như có
lẽ, có thể, hay bạn
có định để làm diệu bớt tác dụng
của những yêu cầu của cô. Những biểu
mẫu vai tṛ cổ truyền cho phụ nữ - nhất la
những biểu mẫu cho các bà vợ và bà mẹ ở nhà
– bị xói ṃn trong thập niên 1970 và truyền thông
đại chúng phải đưa ra những biểu
mẫu mới, trong đó có Mary Richards.
Tôi
cảm thấy chắc chắn rằng Bettelhiem và Douglas
sẽ cho rằng ảnh hưởng của truyện trên
hành vi thường thường, nếu không nói là phần
lớn, vô thức hay vô t́nh và do đó mang tính huyền
thoại. Tôi có thể cố
chủ tâm bắt chước cách thức mà Tom Hanks ăn
mặt và đùa cợt trong Sleepless
in Seattle, nhưng thường
hơn th́ tôi hành động giống như không có một
tra vấn ư thức tại sao tôi hành động thế
nầy thay v́ thế khác.
Thực vậy, bất kư khi nào tôi ngưng hành
động để phản suy trên câu hỏi tại sao, câu hỏi về ư
nghĩa và mục đích rất có thể sẽ xảy ra. V́ những câu chuyện minh
thị có thể bị tra vấn, ít nhất trên nguyên
tắc; v́ tôi có thể cố t́nh hỏi phải chăng
tôi muốn bắt chước nhân vật hay một
phương diện đặc biệt vào đó của
một nhân vật, câu thần chú, hay, theo như Bettelheim
nói, cái “bùa mê” của câu
chuyện luôn luôn khó đứng vững. Kết quả, câu chuyện
thần tiên của Cinderella và chương tŕnh TV
đương thời của Mary Richards c̣n lại như
những câu chuyện b́nh thường, và thẩm quyền của chúng đối
với tư tưởng và hành vi có thể bị chối
bỏ khi nào nó trở nên yêu sách hay bất tiện. Bất luận Bettelheim, Douglas, và
những đồng nghiệp của họ có thể bén
nhạy về trực giác hay hấp dẫn đến
đâu, cuối cùng họ cũng không đi đủ xa v́ họ
vẫn c̣n quá tập trung trên những câu truyện chứ
không phải thần thoại.
Trên tŕnh độ thần thoại, tôi bị đ̣i
hỏi phải bán tất cả những của cải
trần tục của tôi để theo Christ; trên tŕnh
độ của tự truyện, Jesus là một ví dụ
đày cảm hứng, một câu chuyện quan trọng và
sinh tử - xin đừng hiểu lầm tôi – nhưng
vẫn chỉ là một câu chuyện. Thần thoại tác động
ở một tŕnh độ sâu xa hơn nhiều, theo
một cách tiền ư thức hay tiềm thức, khiến
thần chú của nó mănh liệt hơn. Hay nói một cách khác, thần
thoại chân chính là bất khả thị.
Tính Bất Khả thị
của Thần Thoại
Tôi
muốn nói ǵ khi nói rằng thần thoại là bất
khả thị, và chúng ta nói thế nào về ma?
Thần
thoại đích thực là bất khả thị theo hai
cách.
Thứ
nhất, theo Eliade, “đa sô những người ‘không tôn
giáo’ vẫn bám theo những tôn giáo giả trang (pseudo
religions) và những thần học thoái hóa.” Để
đưa ra một ví dụ, Eliade dẫn chứng câu trúc
thần học và nội dung mạt thế của chủ
nghĩa Marxist. Trên bề
mặt, thuyết Marxist công khai bác bỏ thần học tôn
giáo – tôn giáo, chung qui, là á phiện của con người –
nhưng trên một b́nh diện sâu thẳm hơn và tiềm
tàng đó là một trong những huyền thoại mạt
thế lớn nhất của thế giới:
Những
Kẻ Công Chính (kẻ “được lựa chọn”,
“được bôi dầu thánh”,”kẻ vô tội”, “sứ
giả”; ngày nay là gai cấp vô sản)…có sứ mạng
phải thay đổi trạng thái siêu h́nh của thế
giới. Trên thực tế,
những giai cấp xă hội của Marx và sự tan
biến tiếp theo của những căng thẳng
lịch sử rất giống với những phiên bản
tương quan trong thần thoại của Thời Kỳ
Vàng mà nhiều truyền thống đă đặt ở
khởi điểm và tận cùng của lịch
sử. Marx phong phú hóa thần
thoại khả kính nầy bằng cả một ư thức
hệ cứu thế Judas-Christ: một mặt, vai tṛ tiên
tri và chức năng cứu thế mà ông qui cho giai cấp
vô sản; mặt khác, cuộc
chiến cuối cùng giữa Thiện và Ác, rất dễ so
sánh với cuộc chiến khải huyền giữa Christ
và Người Chống Christ, theo sau là chiến thắng hoàn
toàn của Christ.
Eliade
t́m thấy điều mà ông gọi là những h́nh thức
thoái hóa của thần thoại trong chiến tranh,
đấu tranh cá nhân, phân tâm học, và mỉa mai thay, trong đọc sách và nghiên
cứu. Điều quan
trọng liên quan đến những huyền thoại tiềm
tàng nầy nằm ở chỗ chúng là những thần
thoại đích thực, thứ nhất, theo nghĩa chúng
cung ứng những giải pháp mô h́nh liên quan đến
phương thế và lư do hành động của con
người và, thứ hai, theo nghĩa yếu tố
thần thoại c̣n bất khả thị và không ai biết. Đối với những
người sống bên trong huyền thoại, sự
xuất hiện của giai cấp vô sản hay, cách khác,
của phâm tâm học, mang tính cách thuần lư và có khả
năng mô tả vấn đề một cách khách quan. Đó không phải là huyền
thoại; đó là những ǵ có thực. Bên trong huyền thoại, không ai
nêu lên câu hỏi liệu có nên ra trận hay không khi
đất nước cần.
Tôi chỉ đơn thuần trả lời. Bên trong huyền thoại, tôi không
chính mắt nh́n thấy huyền thoại, cũng như tôi
không nh́n thấy những mắt kiếng trong những hoa
hồng của tôi; ngược lại, tôi nh́n xuyên qua cái
huyền thoại vô h́nh hay trong suốt khi tri giác thế
giới trong trạng thái thực của nó – theo viễn
kính của tôi.
Một
cách khác, có lẽ dễ thực hiện hơn, để
nói về tính bất khả thị hay vô h́nh của
huyền thoại là xem xét bản chất của việc viết
sử kư. Theo truyền
thống, sử kư được nghĩ là mô tả và
tương ứng với những biến cố
“thực” – những sự kiện – trái với hư
cấu hay giả tưởng vốn liên quan đến
những biến cố tưởng tượng. Trên tŕnh độ cao nhất, sử
kư đạt đến tính khách quan và vô tư của khoa
học; càng đưa vào một thiên vị cá nhân hay ư
thức hệ vào trong một diễn giải lịch
sử, người ta càng đi xa khỏi sự mô tả
trung thực của những ǵ đă xảy ra. Hiểu biết trong lịch
sử chỉ có khi nào những mô tả của chúng ta
phản ảnh những ǵ đă thực sự xảy ra.
Trái
với sự hiểu biết cổ truyền nầy
về sử kư, sử gia về ư thức Hayden White tỏ
ra thuyết phục khi cho rằng tất cả sử kư,
bất luận có vẻ khách quan đến đâu, chỉ
là một tổng hợp giữa sự kiện và h́nh
thức tự truyện tổng quát vốn mă hóa hay
thiết định dữ kiện vào những dạng
tự truyện quen thuộc trong văn hóa của chúng ta.
Hiểu biết là một quá tŕnh biến cái xa lạ thành
quen thuộc thông qua một quá tŕnh mà White mô tả theo
nhiều các khác nhau như bố cục hóa, mă hóa, hay
thiết định. Trong quá
tŕnh nầy, những sự kiện lẽ ra hỗn
độn được hiểu biết thông qua những
dạng tự truyện quen thuộc trong văn hóa của
chúng ta. Lịch sử học do đó “tạo nên những đối tượng nà nó
chỉ giả vờ mô tả một cách thực tế và
phân tích một cách khách quan.”
Chúng ta hiểu
biết
để t́m ra ư nghĩa trong những sự kiện theo
mức độ chúng tuân thủ và đồng hóa với
những huyền thoại sẵn có trong văn hóa của
chúng ta. Tóm lại, chúng ta
học hỏi bằng cách đi ngược lại và
lặp lại những câu chuyện thiêng liêng. Thực vậy, để đi
xa hơn một bước, những truyện nầy –
huyền thoại – không chững chỉ thiết
định những sự kiện hiện có, chúng c̣n xác
định những sự kiện nào chúng ta t́m kiếm và
lưu ư. White tóm lược
khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông về
hiểu biết sử kư như sau:
Độc
giả, trong quá tŕnh theo dơi công tŕnh của sử gia về
những biến cố nầy, từng bước đi
đến nhận định rằng câu chuyện mà
họ đọc là loại nầy thay v́ loại khác:
t́nh cảm, bi kịch, hài
kịch, trào phúng, sử thi, hay những ǵ họ có. Và khi độc giả xác đinh
được loại hay dạng của câu chuyện
đang đọc, họ cảm nhận cái hệ quả
được người khác giải thích những
biến cố của câu chuyện.
Ở điểm nầy, họ không những theo dơi
câu chuyện một cách thành công; họ c̣n nắm
được điểm chính của nó, hiểu được nó nữa. Vẻ xa lạ,
bí mật, ngoại lai ban đầu của những
biến cố bị đẩy lui, và chúng mang một
bộ mặt quen thuộc,
không phải trong những chi tiết của chúng, nhưng
trong những chức năng của chúng như là những
yếu tố của một loại thiết định
quen thuộc. Chúng
được làm cho dễ hiểu bằng cách
được xếp chung vào những phạm trù của
cấu trúc bố cục trong đó chúng được mă
hóa như một câu chuyện vào một loại đặc
biệt. Chúng trở nên quen
thuộc, không những v́ độc giả bây giờ có nhiều
thông tin hơn về những biến cố, mà c̣n v́ họ
đă được cho thấy những dữ kiện phù
hợp ra sao với một biểu tượng của
một quá tŕnh đă hoàn tất có thể hiểu
được, một cấu trúc bố cục mà họ
quen thuộc như một phần tài sản văn hóa
của họ. Bất kỳ ai đă biết qua khái
niệm của Kant về trí tưởng tượng tiên
nghiệm sẽ thấy quen thuộc phần nhận
định của White về cách thức chúng ta thấy và
hiểu sự kiện dựa trên những “phạm trù
của cấu trúc bố cục trong đó chúng
được mă hóa”. Theo một số học giả,
ngay cả những tri thức
của chúng ta về những định luật thiên nhiên
khách quan cũng được thông báo bởi những
huyền thoại phi thiên nhiên. Chúng ta không bao giờ có
thể suy nghĩ hoàn toàn bên ngoài huyền thoại; nói
rằng chúng ta t́m thấy ư nghĩa trong chính các sự
kiện chỉ đơn thần cho thấy một
thiếu sót nào đó về tự giác.
Bốn Câu Hỏi
Để
tóm lượt phần tŕnh bày của chúng ta về tư
duy thần thoại, chúng ta hăy xem xét bốn câu hỏi: (1)
Chúng ta biết ǵ? (2) Làm thế nào chúng ta biết? (3) Suy tư thần thoại
ảnh hưởng thế nào trên những ǵ chúng ta lưu
ư và những ǵ chúng ta bỏ qua trong kinh nghiệm của
chúng ta? Hay nói cách khác, tư duy thần thoại cho phép chúng
ta được hỏi những câu hỏi nào và bỏ qua
những câu hỏi nào?, (4) Tư duy thần thoại nói ǵ
về câu hỏi về ư nghĩa?
Chúng
ta biết ǵ?
Thứ
nhất, một cách ư thức hay tiềm thức, chúng ta
biết một số câu chuyện và cấu trúc bố
cục tác động một cách huyền thoại bằng
cách cung ứng cho chúng ta những biểu mẫu
độc đoán chúng ta là ai và nên hành động thế
nào. V́ chúng là độc
đoán, chúng ta biết rằng chúng ta có thể giải
quyết những bất xác và mơ hồ của
đời sống bằng cách tựa vào những
động tác của các nhân vật thần thoại. Như chúng ta đă thấy, White
cho rằng làm thành viên của một nền văn hóa có
nghĩa là thiết định thế giới theo “mă
số di truyền” được cung ứng bởi
những huyền thoại thừa kế của chúng
ta. Như thế, ư nghĩa làm
một người Mỹ đ̣i hỏi phải biết và
đồng hóa với những tự truyện của
cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và Cuộc Nội Chiện,
tương tự như trẻ con biết và lặp
lại những câu chuyện về Superman hay Luke Skywalker. Trên một b́nh diện sâu xa hơn, thần thoại cấu
trúc trong tiềm thức cách
thức mà chúng ta xử dụng hay thiết định kinh
nghiệm của chúng ta – dễ tin nhất, trước khi
chúng ta “bước ngược lại” để bắt
chước một cách có ư thức những động tác
của một anh hùng hay thần thánh. Không có kinh nghiệm nào mà không
được diễn đạt; ngược lại,
kinh nghiệm mang h́nh thù và trở nên hiển thị nhờ
những thần thoại được giữ trong
tiềm thức mà chúng ta xử dụng. Những thần thoại
được giữ trong tiềm thức nầy nói
với chúng ta cái ǵ phải lưu ư và cái ǵ phải bỏ
qua, cái ǵ có ư nghĩa và cái ǵ không.
Thứ
hai, chúng ta biết những hoạt cảnh, âm thanh, và
những tự truyện triển khai theo thời gian,
chứ không phải tư tưởng hay cứu cánh
thực dụng. Thần
thoại tŕnh bày với chúng ta một mặt phẳng
của những đặc thái sáng ngời (bright particulars);
những đặc thái nầy, nghịch lư thay, cũng là
một thế giới siêu việt của những
động tác phi thời gian và phổ biến. Tư duy huyền thoại
chứng minh rằng h́nh ảnh và mô h́nh cảm kích chúng ta
nhiều hơn là khái niệm và lư luận. Những người quảng cáo
biết điều nầy rất rơ; những người
giàu có, hấp dẫn có vẻ như quyến rũ kêu
gọi chúng ta trở thành “giống như họ” khi họ
lái chiếc xe đời mới nhất. Có thể không điên ǵ lại
chuốc nợ để mua một chiếc mới hay
một cái nhà lớn hơn, nhưng, v́ bị huyền
thoại cám dỗ, chúng ta không thể tự ngăn cản
ḿnh mua một chiếc xe BMW màu đỏ sáng chói. Kỹ
thuật quảng cáo dưới h́nh thức tiếp
thị gián tiếp tác động những lựa chọn
của chúng ta nhưng không làm chúng ta để ư
điều đó. Chúng ta
biết rằng thế giới hằng ngày,
được xem là đương nhiên của chúng ta có thể
được “nh́n thấu suốt” và đời sống của
chúng ta có được sự đích thực và ư nghĩa
đến mức độ nó bắt chước và tương
ứng với thế giới siêu việt của huyền
thoại. Chúng ta biết
rằng những cuộc sống đặc thù, gióei
định bởi thời gian của chúng ta có thể
trở thành phổ biến và phi thời gian thông qua
huyền thoại.
Làm
thế nào chúng ta biết?
Chúng
ta biết nhờ đồng hóa kinh nghiện của chúng
ta với những tự truyện được t́m
thấy trong các câu chuyện hoạt động một cách
thần thoại. Nghĩa là, chúng
ta biết qua mô phỏng, đồng hóa, và đi theo
những mô h́nh cụ thể, bằng da
bằng
da bằng thịt của những anh hùng và thần thánh qua
lặp đi lập lại hay qua nghi lễ, đúng
hơn, chẳng hạn, là đi theo một ư thức hệ trừu
tượng, hay danh sách của những điều răn
minh thị. Trẻ con thể
hiện sự khôn ngoan của đầu óc thần
thoại bằng cách tự
giác đồng hóa với những anh hùng của văn hóa
b́nh dân và điền kinh. Lư do
hay giải thích cho một biến cố hay hành động
nằm trong sự mô phỏng và đồng hóa với chính
tự truyện huyền thoại, không phải trong
những yếu tố xă hội học hay sinh học. Chúng ta được giải
phóng khỏi gánh nặng hiện sinh phải biết cái ǵ
phải làm và chúng ta là ai bằng cách đồng hóa
những hành động và ư muốn của chúng ta với
những nhân vật của thần thoại. Chúng ta biết, không phải bằng
cách biết về huyền
thoại, nhưng bằng cách sống
một cách huyền thoại.
Tư duy huyền thoại
nhấn mạnh cái ǵ và bỏ qua cái ǵ?
Mỉa
mai thay, tư duy huyền thoại – khi chúng ta bị hoàn toàn
cám dỗ bởi bùa mê của nó – không cho phép chúng ta
đưa ra một câu hỏi trừu tượng hay khái
niệm như “Ư nghĩa cuộc sống là ǵ?” hay “Tại
sao những người tốt lại đau khổ?” Tư duy huyền thoại cũng
không cho phép chúng ta hỏi phải chăng những hành
động của một anh hùng là nhất quán, có thực,
hay hữu ích một cách thực dụng. Thần thoại không cho phép chúng
ta bước ra khỏi nó. Nó
chỉ cho phép chúng ta kể ít nhiều những câu
chuyện hấp dẫn,
tuần tự chuyện nầy sang chuyện khác. Về
huyền thoại chúng ta có thể hỏi liệu chúng
sống hay chết, hấp dẫn hay nhàm chán, nhưng không
thể hỏi chúng có thực hay không. Bên trong huyền thoại, vũ
công không thể được tách rời khỏi
điệu vũ. Niềm tin
và dấn thân mang nhiều đặc điểm của
tư duy thần thoại hơn là nghi ngờ và hoài
nghi. Thần thoại nêu
bật kinh nghiệm trấn an được cung ứng
bởi sự liên tục, lặp đi lặp lại, và
sự chấp nhận những mô h́nh thẩm quyền. Tô viết đoạn nầy trong
Mùa Giáng Sinh, và tôi nhớ lại rằng, bên trong huyền
thoại, tính tân kỳ và sáng tạo ít quan trọng hơn là nghe cùng điệu Lessons and Carols và đáp
lại, “Thế giới vô cùng,
từ thuở ban sơ, bây giờ, và măi măi.”
Huyền
thoại và ư nghĩa
Huyền
thoại là điều kiện nguyên ủy của chúng ta.
Huyền thoại là thế giới trong đó chúng ta
sống trước khi chúng ta hỏi cuộc đời có
nghĩa hay không. Huyền
thoại là chúng ta sống thế nào khi chúng ta dấn thân
đầy đủ và tự giác; khi chúng ta đồng hóa
và tham gia trọn vẹn trong những hành động
của chúng ta.
Như
chúng ta đă thấy, những người bênh vực cho
tư duy huyền thoại lư luận rằng chúng ta không bao
giờ ở bên ngoài huyền thoại. Từ viễn tượng đó,
đối với chúng ta, điều có vẻ như là
một động thái đi từ huyền thoại và mê
tín sang lư trí và nhân quả (điều được
gọi là huyền thoại Khai Sáng) thực sự là
một động thái đi từ một huyền
thoại sang một huyền thoại khác, dù đó là
huyền thoại thế tục. Sự vô nghĩa là không thể có
v́ chúng ta luôn luôn ở bên trong huyền thoại, cho dù huyền
thoại đó nói rằng cuộc đời là vô
nghĩa. Những người
theo chủ nghĩa hư vô sát nhập h́nh thức ư
nghĩa của chính họ vào sự chối bỏ ư
nghĩa của họ, tương tự như những
trẻ vị thành niên nổi loạn sát nhập h́nh
thức qui ước của chúng vào cách ăn mặc và
hành vi bất qui ước của chúng. Hơn nữa, trong mức
độ mà chúng ta không thể sáng tạo một cách
tự giác một huyền thoại hấp dẫn, chúng ta
bị thu hút và quyến rũ bởi những sức
mạnh vượt khỏi sự kiểm soát trực
tiếp của chúng ta. Chúng ta
mong ngóng một vị thần mới, một t́nh yêu
mới, một hứng khởi mới đến với
chúng ta như một mặc khải và ân sủng. Về mặt thần học,
chúng ta được cứu rỗi thông qua ân sủng, không
phải qua những công tŕnh hay chính trực của chúng
ta. Một chiến
lược huyền thoại là chiến lược hàng
đầu về ư nghĩa, v́ nó là tất yếu; chúng ta
luôn luôn sống bên trong huyền thoại, càng đúng là
thế khi chúng ta không nhận thức được nó.
Những
tư tưởng như thế thách thức mọi
điều mà chúng ta
tin tưởng trong thời
đại của chúng ta. Chúng
ta chống lại ư niệm cho rằng chúng ta không phải
là những người tự do, tự trị có thể
thực hiện những phán đoán có ư thức , tự
giác dựa trên thông tin khách quan.
Quả có vẻ lố bịch nếu nghĩ rằng những hành động
và kinh nghiệm của chúng ta không phải là cái ǵ mới và
sáng tạo mà là cũ và được lặp lại. Từ thời xa xưa chúng ta
đă được dạy để sống như chính
ḿnh thay v́ bắt chước người khác. Chúng ta có
thể bám vào huyền thoại và niềm tin như
những người ngoại cuộc, có thể giản
lượt nó thành một hệ những tin tưởng mà
chúng ta đối chiếu và chấp nhận hoặc
như thực hoặc như giả. Nhưng tin tưởng và sống
trong huyền thoại là hai điều khác nhau. Những huyền thoại về
triết học và hiện đại thuyết dạy chúng
ta phải nghi ngờ những huyền thoại cũ
hơn về các thần linh và những sức mạnh
của thuyết nhân h́nh. Nhờ
nghi ngờ đó người ta dễ hiểu hơn
một chiến lược huyền thoại về ư
nghĩa bằng cách nh́n thấy huyền thoại thất
bại ra sao và khi nào.
Thứ
nhất, ư nghĩa bị mất v́ chúng ta đă “quên”
những câu chuyện huyền thoại. Nói đơn giản hơn, chúng
ta không thể liên hệ kinh nghiệm hiện tại
của chúng ta với những câu chuyện thông tin đời
sống của thần thoại nếu
chúng ta không biết những câu chuyện. Từ viễn tượng đó,
ư nghĩa bị mất v́ chúng ta đă không học
được những câu chuyện thiêng liêng và những
phương thức hỗ trợ chúng. Chúng ta đă có được
kiến thức cung ứng bởi triết học và khoa
học nhưng lại xem thường túi khôn
được t́m thấy trong huyền thoại. Một bộ bách khoa về
những mẩu chuyện thần thoại và những h́nh
ảnh văn hóa tạo nên một bộ ngữ vựng
về các thể loại qua đó kinh nghiệm của chúng
ta có thể được xác định một cách
độc nhất. Không có
bộ ngữ vựng đó, kinh nghiệm của chúng ta
chưa được thông tin trên phương diện nhân
bản và vô nghĩa.
Ngược lại, một chiến lược
huyền thoại về ư nghĩa đ̣i hỏi phải
học ngữ vựng vê thần thoại và chú tâm
đến những tập tục và nghi lẽ xă hội
hỗ trợ chúng.
Thứ
hai, vấn đề vô nghĩa có thể được
qui trách cho sự chấp
nhận
điều có thể được gọi là “huyền
thoại hư vô”. Thuyết
hư vô, như được diễn tả trong những
câu chuyện hiện sinh của Camus, Beckett, va Vonnegut,
chẳng hạn, tự nó là một thần học tột
đỉnh của một truyền thống hoài nghi lâu dài
cho thấy rằng không có ư nghĩa trong một vũ
trụ vô tư hay khách quan không mục đích. Mỉa mai thay, huyền thoại
về một vũ trụ vô nghĩa tự nó là một
cách đưa ư nghĩa vào kinh nghiệm vô nghĩa. Những người theo
thuyết hư vô có những bố cục riêng của
họ về kinh nghiệm.
Theo huyền thoại nầy, chúng ta có được
sự đích thực, tư cách, và ư nghĩa bằng cách
chấp nhận một cách thực thà và can đảm
rằng vũ trụ không có ư nghĩa nội tại. Huyền thoại nói với chúng
ta rằng chúng ta siêu dẳng hơn những người
sống những cuộc đời giả tạo, không
đích thực bằng cách tin vào một huyền thoại
nầy hay huyền thoại khác, bất luận huyền
thoại đó là Giấc Mơ Mỹ hay một cuộc
cách mạng xă hội. Có
sự quí phái và nghệ thuật trong việc sáng tạo ư nghĩa
trong một vũ trụ lư ra là vô nghĩa. Nghịch lư thay, một chiến
lược huyền thoại lại hữu hiệu cho
việc đầu ư nghĩa cho cuộc sống ngay cả
khi huyền thoại nói với chúng ta rằng không có ư
nghĩa.
Thứ
ba, bản chất hấp dẫn của tư duy huyền
thoại sụp đổ khi nào chúng ta bắt đầu
phản suy hay tự giác. Ư
nghĩa là cái giá chúng ta phải trả cho tự giác. Điều nầy hàm ngụ
rằng một chiến lược sống trong huyền
thoại vừa là mong manh vừa dễ tổn
thương, cuồng tín và nguy hiểm. Xin nhớ rằng tư duy
thần thoại là rơ ràng
cụ thể và tập trung trên bề mặt sáng ngời
của sự vật. Nếu
tôi không thể nh́n thấy nó hay hiểu được nó
với những giác quan của tôi, th́ nó không thể
được định nghĩa rơ rầng trong huyền
thoại. Huyền thoại không
chứa đựng chiều sâu, tư tưởng, hay
những ư nghĩa ẩn giấu, những phản ảnh
đáp ứng của chúng ta khi chúng ta dấn thần
trọn vẹn và không tra vấn.
Những câu hỏi về ư nghĩa không bao giờ
được nêu lên khi chúng ta yêu nhau hay, như chúng ta nói,
“bị cuốn hút” theo thể thao hay tṛ chuyện, khi chúng
ta đang sống trong huyền thoại một cách vô
thức. Đối với
những người sống trong huyền thoại, không có
huyền thoại hay khoảng cách giữa kẻ biết và
đối tượng được biết; thế
giới trong đó chúng ta sống đơn thuần có
thế, và chúng ta đáp ứng.
Khi đáp ứng với bi kịch, chúng ta chỉ có
thể nói, “Đó là ư muốn của Chúa.” Ngược lại, bất
kỳ khi nào chúng ta “bước lui lại” để
phản suy – khi chúng ta đối chiếu những huấn
lệnh của huyền thoại nầy với huyền
thoại khác hay nêu ra câu hỏi “tại sao” một câu
chuyện hay động tác là đúng hay quan trọng – chúng
ta đă đi ra ngoài huyền thoại. Chúng ta bắt
đầu suy nghĩ về
huyền thoại, đúng hơn là trong huyền
thoại. Xin nhớ lại làm
thế nào Tolstoy tĩnh ngộ lại sau khi ông bước
ngược lại và bắt đầu cái được
xem là một chuỗi vô tận những câu hỏi tại sao và để làm ǵ.
Bước ngược lại, phản suy trên những
ǵ đang làm và những ǵ đang làm có nhất quán hay không,
tương ứng với một tư tưởng, hay
hữu ích một cách thực dụng – thay v́ là chỉ làm
một cách vô ư thức – có thể là sự tĩnh ngộ
của ḿnh. Robert C. Solomon mô
tả thời điểm tại đó bùa mê của tư
duy huyền thoại bị tan vỡ và chúng ta tự siêu
vượt, không phải bằng cách đi vào huyền
thoại qua đồng hóa, nhưng bằng cách bước
lui khỏi huyền thoại để phản suy:
Tuy
nhiên có lúc chúng ta đă chắc chắn về một câu
trả lời, nghĩa là, trước khi chúng ta tra
vấn. Sau khi chỉ nghe câu
hỏi nêu ra, chúng ta biết: “Đương nhiên cuộc
đời có ư nghĩa – có hạnh phúc, đồng bào, t́nh
yêu, những thú vui nhỏ
của cuộc sống…”
Nhưng khi chúng ta hỏi, chúng ta bước lui lại
từ tiến tŕnh sống, khi chúng ta có thể bước
lui từ t́nh yêu, và trổi lên âm thanh ghê rợn thầm
lặng đó tương tự như tiếng xé nơi
những đường nối của một tấm
vải khâu chặt và nhau.
Tức khắc chúng ta nhận ra những ǵ chúng ta
đă làm. Bước
ngược của chúng ta đă xé nát cái thâm cung từng
dùng để trả lời câu hỏi của chúng ta,
trước khi nó bị tra vấn…Cái “tại sao” chung
quyết đó đă phá hỏng mọi thứ…Mọi
thứ vẫn c̣n như trước nhưng suy giảm,
mất hết ư nghĩa.
Thế giới không c̣n là thế giới của chúng
ta:
Chúng
ta quan sát nó…Những tập quán cũ giữ chúng ta đi
tới, giống như người máy, xuyên qua những
nhịp sống, nhưng chúng ta không hoàn toàn ở đó. Câu
hỏi “tại sao” không có câu trả lời.
“Bước
lui” từ cuộc sống trong huyền thoại báo
hiệu sự bắt đầu của tư duy triết
học. Những nguồn
gốc và đặc tính của lối suy nghĩ nầy, và làm thế nào nó góp
phần tŕnh bày ư nghĩa, là đề tái của
chương tiếp theo.