Trước đây, với "Thi Ca Lãng Mạn Pháp" và "Thi Ca Tuyển Tập Anh Mỹ," tác giả Đông Yên tỏ ra quá "ôm đồm." Có lẽ vì choáng ngợp với bao nhiêu hào quang lấp lánh trong rừng thơ Phương Tây nên dường như ông cố nắm bắt cho hết những hạt trân châu đó trong một vài dịch bản. Đam mê và tham vọng đó là bình thường với một người say mê văn học nói chung và thi ca nói riêng. Lần nầy, với Robert Frost Tuyển Tập I (23 bài) và Emily Dickinson Tuyển Tập I (25 bài), dường như ông đã nhận ra rằng mình không thể hai tay ôm hết lá rừng nên quyết định đi từng tác giả, bắt đầu lại với Robert Frost và Emily Dickinson. Sau Frost và Dickinson sẽ là những ai thì còn tùy thuộc tuổi tác và sức khỏe của tác giả Đông Yên. Ông đóng góp đến đâu chúng ta đón nhận đến đó, thế thôi. Sở dĩ ông bị ám ảnh bởi Frost và Dickinson có lẽ vì tiềm năng tư duy trong hầu hết những tác phẩm của hai thi hào nầy vượt sức tưởng tượng đối với ông. Phần lớn những chủ đề trong thơ Frost và Dickinson rất "đời thường," dung dị và mộc mạc, nhưng thiên tài của họ trở nên xuất chúng vì những đặc tính đó. Phía sau và bên trên những lời thơ mộc mạc và dung dị đó là cả một trời suy tư khó mà thăm dò cho hết. Phần bình mà Đông Yên dành cho mỗi bài thơ của Frost và Dickinson cho dù khá chu đáo đi nữa dường như vẫn chưa đủ cho ông nói hết những gì ông muốn nói về cường độ và biên độ của thơ Frost và Dickinson. - Minh Điền
DESIGN - ROBERT FROST
Đối với một số bài thơ, người ta chỉ cần suy luận đôi chút là có thể nhận ra một lý do chủ yếu tại sao bài thơ có được một giá trị lớn đến thế. Nhưng Design không thuộc trường hợp đó.
Tựu trung đó chỉ là một bài thơ về một bông hoa nhỏ. Nhưng chúng ta sẽ nhận ra một bí mật. Thực ra, Frost dứt khoát không nói về một bông hoa. Bài thơ cho thấy một nỗ lực hình dung bản chất cơ bản của toàn thể vũ trụ. Nó liên quan đến câu hỏi liệu chúng ta đang sống trong một thế giới có cứu cánh và ý nghĩa hay không; liệu có ai ngoài kia đang điều khiển hay không; và liệu đó là một điều tốt hay không. Đó chính là thách thức của bài thơ.
Đó là cảnh tượng của một hiện trường gần như không còn sự sống. Con nhện nằm yên một cách thỏa mãn sau một vụ hạ độc và chờ cơn đói tới để kết liễu đời con bướm đêm chưa chết hẳn nhưng không còn sống sau khi phải nọc của con nhện. Con bướm đêm đang du hành từ cõi sống vào cõi chết, du hành bằng đôi cánh đã chết cứng ngay khi vừa toan cất cánh lần cuối và ngay sau khi bị con nhện tấn công. Đôi cánh đó tượng trưng cho một ngưỡng cửa giữa sinh và tử, đồng thời hiện ra trong toàn cảnh như một sự đầu hàng của thiện trước ác.
Con nhện vừa giết một con mồi mặc dù nó không giết vì đói mà giết như một bản năng phòng bị để sinh tồn trong khi sự sinh tồn đó không hề bị đe dọa vì thiếu thực phẩm hay kẻ thù nào hiển thị từ loài bướm đêm. Con nhện hung dữ và hiếu sát có một đồng lỏa là bông hoa trắng, cùng màu trắng với con nhện để nhện dễ ngụy trang và đánh lừa con bướm đêm vô tội thiếu cảnh giác. Mỉa mai thay, bông hoa trắng kia thường được xem là biểu tượng của trong trắng ngây thơ và, hơn thế, tượng trưng cho một thần dược cứu khổ. Thế thì đâu là ác và đâu là thiện?
|