Cùng với Sự
Bùng Nổ của Trí Khôn Nhân Tạo
Con Người sẽ
Trở Thành Bất Tử?
Lev Grossman – Time, Feb 10, 2011
(Tài liệu nầy được
đăng tải trên Tuần Báo NGƯỜI VIỆT
TÂY BẮC Số
2002 Thứ Sáu Ngày 18-2-2011)
Đông Yên Lương Tấn
Lực
Raymond
Kurzweil |
Ngày
15/2/1965, một học sinh trung học rụt rè nhưng
b́nh tỉnh tên Raymond Kurzweil xuất hiện như một
người khách trong cuộc thi đố (game show) tên I’ve Lost a Secret. Cậu ta được người
điều khiển chương tŕnh Steve Allen giới thiệu,
sau đó cậu vào ghế dương cầm để
chơi một bản nhạc ngắn. Đại ư là Kurzweil đang che dấu
một sự kiện bất thường và những
người tham gia thi đố – gồm một nghệ sĩ
hài kịch và một cựu Hoa Hậu Mỹ Quốc – phải
đoán sự kiện đó là ǵ.
Trên sân khấu, cô cựu hoa hậu chất vấn
Kurzweil rất hay, nhưng diễn viên hài đă thắng cuộc: bản nhạc được sáng tác bằng máy
vi tính. Kurzweil nhận
được $200.
Sau
đó Kurzweil biểu diễn máy vi tính, máy mà cậu ta tự
chế tạo – một món đồ to bằng cái bàn làm việc
với những phiếm kêu to lách cách, nối kết vào một
máy đánh chữ. Những
người tham gia thi đố không hứng thú mấy với
cái máy đó; họ có ấn tượng mạnh đối
với tuổi của Kurzweil
hơn bất kỳ những ǵ cậu ta thực sự
làm. Họ lướt qua và sẵn sàng đi tiếp đến
bà Chester Loney ở Rough and Ready, California; bí mật của bà
nầy là bà đă từng làm cô giáo lớp một của Tổng
Thống Lyndon Johnson. Nhưng Kurzweil sẽ dành phần c̣n lại
của sự nghiệp của ḿnh để thực hiện
mục tiêu được hàm ngụ trong cuộc biểu diễn. Sáng tạo một công tŕnh nghệ
thuật là một trong những
hoạt động mà chúng ta dành cho con người và
chỉ cho con người mà thôi.
Đó là một động tác tự thể hiện;
bạn không giả định có thể làm được
như thế nếu bạn không có một cái tôi. Sáng tạo là lănh vực độc
tôn của con người; và sáng tạo đó đang bị
soán đoạt bởi một máy vi tính do một cậu bé
17 tuổi chế tạo. Nh́n thấy sự sáng tạo tức
là nh́n thấy đường phân ranh đang nhạt nḥa
nhưng không thể văn hồi, đường phân ranh giữa
trí khôn hữu cơ và trí khôn nhân tạo. Đó là bí mật thực sự của
Kurzweil, và vào thời 1965 không ai đoán ra được. Có
lẽ chính cậu cũng không đoán ra luôn, hay chưa
đoán ra. Nhưng bây giờ,
46 năm sau, Kurzweil tin rằng chúng ta đang đến gần
một thời điểm mà những máy vi tính sẽ trở
nên thông minh, và không chỉ thông minh nhưng thông minh hơn cả
con người. Khi điều
đó xảy ra, con người – thể xác, linh hồn, văn minh – sẽ
biến trạng hoàn toàn và không thể văn hồi. Ôn tin rằng không những thời
điểm nầy là tất yếu nhưng c̣n là sắp cận
kề rồi. Theo những
tính toán của ông, văn minh nhân loại như chúng ta biết
sẽ kết liểu khoảng 35 năm tới đây. Những máy vi tính đang chạy
nhanh hơn và mỗi ngày một nhanh hơn nữa.
Do
đó nếu máy vi tính chạy nhanh hơn, nhanh một cách
không thể tin nỗi, đương nhiên có thể đến
một lúc chúng có thể làm được những ǵ mà trí
khôn nhân loại có thể. Tất cả mă lực đó có
thể đưa vào phục vụ nhằm mô phỏng bất
kỳ cái ǵ mà năo bộ chúng ta
đang làm khi chúng tạo nên được ư thức – không
chỉ thực hiện các phép tính rất nhanh hay sáng tác các
nhạc phẩm dương cầm mà c̣n lái được
xe, viết sách, đưa ra những quyết định
đạo đức, đáng giá hội họa tân kỳ,
sáng tạo những b́nh phẩm tinh tế tại các buổi
tiệc. Nếu bạn có thể
đồng ư như thế, và Kurzweil cũng như nhiều
người rất thông minh khác có thể đồng ư
như thế th́ không c̣n ǵ để nghi ngờ nữa cả.
Từ đó, không c̣n lư do để nghĩ rằng máy vi
tính sẽ ngưng lớn mạnh hơn. Chúng sẽ tiếp tục phát
triên cho đến khi chúng thông minh hơn chúng ta rất
xa. Nhịp độ phát triển
của chúng cũng sẽ tiếp tục gia tăng, v́ chúng
sẽ dùng sự phát triển của chính chúng để
thay thế sự phát triển được chế tạo
do những con người suy nghĩ chậm chạp đă
sản sinh ra chúng. Cứ thử
tưởng tượng một khoa học gia điện
toán lại cũng chính là một máy vi tính siêu thông minh. Nó sẽ
hoạt động nhanh một cách khó tin. Nó có thể xử lư những số
lượng dữ kiện khổng lồ một cách nhẹ
nhàng nhanh chóng. Nó sẽ không nghỉ giải lao để
chơi game Farmville. Có lẽ thế.
Không thể tiên liệu được sự hành xử của
những trí khôn lớn hơn trí không con người nầy,
những trí khôn mà một ngày nào đó chúng ta có thể chung
sống trên hành tinh, v́ nếu làm được thế th́
bạn sẽ thông minh như họ. Nhưng có nhiều lư thuyết
liên quan đến vấn đề nầy. Có thể chúng ta sẽ hội nhập
với họ để trở thành những những sinh vật
vi tính (cyborgs), xử dụng
các máy vi tính để nới rộng khả năng trí tuệ
của chúng ta giống như xe hơi và máy bay nới rộng
khả năng vật lư của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ
kết nhập tri thức của chúng ta vào các máy vi tính và sống
bên trong chúng như một thứ nhu liệu, vĩnh viễn,
biết đâu được.
Có thể những máy vi tính sẽ chống lại con
người và hủy diệt chúng ta. Điểm tương đồng
trong các lư thuyết đó là sự biến trạng
(transformation) của những chủng loại của chúng
ta thành một cái ǵ không c̣n có thể nhận diện ra
được nữa đối với con người của năm
2011. Sự biến trạng nầy
mang một tên: Đơn Trạng
(Singularity(*)).
(*) Theo định
nghĩa vật lư thiên văn (Astorphysics), singularity là điểm có tỉ trọng vô hạn
tại trung tâm của một hố đen (black hole),
nơi những lực biến trạng (tidal forces) trở
nên vô hạn và các định luật vật lư ngưng áp dụng.
(Phụ chú của
người chuyển ngữ)
Điều
khó khăn để h́nh dung khi bạn nói về Đơn
Trạng là dù nghe qua giống như khoa học giả
tưởng, nó lại không phải là khoa học giả
tưởng, cũng như dự báo thời tiết
đâu phải là khoa học giả tưởng. Đó
không phải là một ư tưởng cực đoan;
đó là một giả thuyết nghiêm chỉnh về tương lai của sự
sống trên Trái Đất. Có
một phản xạ trí thức tự nhiên khiến thực
quản của bạn đóng ngay lại khi bạn cố
nuốt một ư tưởng có dính dáng đến những
sinh vật vi tính (cyborgs), nhưng hăy khống chế bản
năng đó nếu có thể được, v́ trong khi
Đơn Trạng , ngoài mặt, có vẻ phi lư, đó lại
là một ư tưởng cần được đánh giá
b́nh tỉnh và thận trọng.
Con
người đang bỏ ra nhiều tiền bạc để
cố hiểu nó. Đại Học
ba năm tuổi mang tên Singularity University, được
Trung Tâm NASA thành lập, cung ứng những lớp liên bộ
môn (inter-disciplinary courses of studies) cho các sinh viên đă tốt
nghiệp bốn năm và những viên chức điều
hành. Google là cơ sở đở
đầu thành lập. Larry
Page, viên chức Đều hành (CEO) đồng thời là đồng sáng lập viên
đă thuyết tŕnh tại đây năm rồi. Người ta chú tâm đến
Đơn Trạng v́ âm hưởng tiêu cực của nó,
tương tự như một màn kinh dị, nhưng họ
nán lại xem v́ có một cái ǵ
đó vượt xa ước đoán của họ. Và đương nhiên, trong trường
hợp nó có thật, nó sẽ là điều quan trọng nhất
xảy ra cho nhân loại kể từ khi phát minh ra ngôn ngữ. Đơn Trạng không phải một
ư tưởng hoàn toàn mới lạ, chỉ hơi mới
thôi. Năm 1965, nhà toán học
người Anh I.J. Good mô tả điều được
gọi là một sự “bùng nổ của trí khôn (intelligence
explosion)” như sau:
Hăy định nghĩa một
máy siêu thông minh như một máy có thể vượt xa tất
cả những hoạt động trí thức của bất
kỳ người nào dù tài ba đến đâu đi nữa. V́ thiết kế của máy móc
thông thường là một trong những hoạt động
nầy, một máy siêu thông minh có thể thiết kế những
máy thậm chí c̣n thông minh hơn thế nữa; lúc đó dứt
khoát sẽ có một sự “bùng nổ trí khôn”, và trí khôn của
con người sẽ bị bỏ lại đàng sau
xa. Như thế máy siêu thông
minh đầu tiên lại là phát minh cuối cùng mà con người
cần phải chế tạo ra.
Từ
singularity được vay
mượn trong vật lư thiên văn (astrophysics): nó muốn
nói một điểm trong
không-thời-gian (space-time) – chẳng hạn, bên trong một
hố đen – tại đó những nguyên tắc vật lư
thông thường không áp dụng được. Trong thập niên 1980, tiểu thuyết gia khoa học giả
tưởng Vernor Vinge ghép từ nầy vào với phiên bản
vê bùng nổ trí khôn của Good.
Tại một hội nghị của NASA năm 1993,
Vinge thông báo rằng “trong ṿng ba
mươi năm nữa, chúng ta sẽ có những
phương tiện kỹ thuật để tạo ra trí
khôn siêu nhân (super-human intelligence).
Không bao lâu sau đó, kỷ nguyên con người sẽ
kết liểu.”
Vào
thời đó, Kurzweil cũng đang suy nghĩ vể
Đơn Trạng. Ông ta bận
rộn từ khi xuất hiện trên chương tŕnh thi
đố I’ve Got a Secret. Ông đă kiếm được
nhiều tiền với tư cách là một kỹ sư và
nhà phát minh; ông thành lập và sau đó bán đi công ty nhu liệu
đầu tiên của ông trong khi ông hăy c̣n theo học tại Đại Học
MIT. Ông tiếp tục chế
tạo máy đọc chữ cho người mù và thực hiện
những sáng chế trong các lănh vực kỹ thuật kể
cả những máy phối âm (music synthesizer) và máy định
giọng (speech recognition). Ông có
39 bằng sáng chế và 19 bằng tiến sỹ danh dự. Năm 1999, Tổng Thống Bill
Clinton đă ân thưởng ông Huy chương National Medal of Technology. Nhưng Kurzweil cũng theo đuổi
nghề phụ là viết sách khoa học giả tưởng:
Ông đă phổ biến những quan niệm của ông vể
tương lai của nhân loại và chủng loại
người máy từ 20 năm nay, tác phẩm gần
đây nhất là “The Singularity
Is Near – Đơn Trạng Đang Đến Gần”,
tác phẩm bán chạy nhất khi ra mắt vào năm 2005. Một
bộ phim tài liệu mang cùng tựa đề ra mắt hồi tháng Giêng, với
diễn viên chính là Kurzweil, Tony Robbins và Alan Dershowitz. (Kurzweil thực sự là đề
tài của hai bộ phim tài liệu hiện nay. Bộ thứ
nh́, ít ảnh hưởng hơn nhưng có giá trị thông
tin nhiều hơn, có tựa đề là “The Transcendent Man – Kẻ Siêu Nhân”). Bill Gates đă gọi ông là “người tài ba nhất theo tôi
biết trong lănh vực tiên đoán tương lai của
trí khôn nhân tạo.” Trong đời sống thực tế,
kẻ siêu nhân là một khuôn mặt b́nh thường có thể
nhầm lẫn với người em trai c̣n đần
độn hơn của Woody Allen.
Kurzweil lớn lên tại Queens, New York, và bạn vẫn
có thể nhận ra điều nầy trong giọng nói của
ông. Bây giờ ông đă 62 tuổi,
nói năng với sự trầm tỉnh gần như thôi miên của một
người đi diễn thuyết công cộng 60 lần mỗi
năm. Với tư cách là quán quân hiển thị nhất về
Đơn Trạng, ông đă nghe tất cả những câu
hỏi và đối diện với sự ngờ vực rất
nhiều lần trước kia. Ông tỏ ra vui vẻ về
chuyện nầy. Cung cách của
ông gần như là từ tốn xin lỗi: tôi ước
sao có thể đem đến cho bạn những tin tức
ít kích động hơn về tương lai, nhưng tôi
đă nh́n vào những con số, và đây là những ǵ những
con số đó nói lên, do đó tôi có thể nói cái ǵ khác
hơn được? Quan tâm
của Kurzweil về số phận sinh học vi tính
(cyborganic) của nhân loại đă bắt đầu vào khoảng
năm 1980 phần lớn như một vấn đề
thực tiển. Ông cần những
phương pháp để đo lường và theo dơi nhịp
độ của tiến bộ kỹ thuật. Ngay cả những phát minh lớn
cũng có thể thất bại nếu chúng đến
trước thời gian của chúng, và ông muốn đoán
chắc ông đă đưa ra phát minh của ông đúng thời
điểm. Ông nói, “Ngay cả vào thời gian đó, kỹ
thuật cũng đang đi đủ nhanh để thế
giới sẽ khác đi vào lúc tôi hoàn thành dự án. Cho nên
đó không khác nào bắn vào mục tiêu đang di chuyển –
bạn không thể nhắm vào mục tiêu được.” Đương nhiên ông biết về
đinh luật Moore cho rằng số lượng những
bóng bán dẫn (transitors)
mà bạn đặt trên một
con microchip tăng gấp
đôi mỗi hai năm. Đó
là một định luật căn bản đáng tin cậy
một cách ngạc nhiên. Kurzweil cố gắng vẽ một
đường biểu diễn hơi khác đi một
chút: sự thay đổi qua thời gian trong hiệu
năng vi tính, tính bằng MIPS
(millions of instructions per second
– bao nhiêu triệu lệnh mỗi giây), mà bạn có thể
mua với giá $1,000. Kết quả
cho thấy những con số của Kurzweil trông rất giống
định luật Moore. Chúng
tăng gấp đôi mỗi hai năm. Khi được vẽ trên đồ
thị, cả hai con số đều tạo thành những
đường cong theo cấp số mũ (exponential
curves), với trị số tăng theo bội số của 2 thay v́ theo
những trị gia tăng b́nh thường trên một
đường thẳng. Những
đường cong tiến đều, ngay cả khi
Kurzweil kéo dài những đường cong của ông lùi lại
những thập niên của những kỹ thuật vi tính
như relays và vacuum tubes thậm chí ngược
đến năm 1900. Sau
đó Kurzweil đưa những con số lên nhiều hệ
thống thẩm định kỹ thuật khác – như sự
giảm giá thành của các bóng
bán dẫn, tăng tốc độ của các bộ điều
hành vi mô (microprocessors), hạ giá đáng kể của bộ
nhớ năng động (dynamic RAM). Ông cũng nh́n xa
hơn vào những xu thế trong sinh học kỹ thuật
(biotech) và xa hơn nữa – giảm giá thành trong dịch vụ
xác định DNA và dịch vụ vô tuyến cũng
như sự gia tăng những máy chủ trên Internet
(Internet hosts) và những bằng sáng chế về kỹ thuật
điện tử đơn tử (nanotechnology) . Ông vẫn nhận thấy cùng một
sự kiện: tăng tốc theo cấp số mũ. Ông
nói, “Quả kỳ diệu khi thấy những hướng
tŕnh nầy đều đặn đến thế - dù dày
dù mỏng, dù chiến tranh hay ḥa
b́nh, dù thịnh hay suy.” Kurzweil gọi đó là định
luật của những phục hồi tăng tốc
(accelerating returns): kỹ thuật
tiến bộ theo cấp số mũ, không theo cáp số bậc
một (linear).
Kế
tiếp ông kéo dài đường biêu diễn vào tương
lai, và sự phát triển mà ông tiên đoán quả thật là
kỳ thú; nó tạo nên sự đối kháng tri thức
trong đầu ông. Theo Kurzweil,
chúng ta không đủ tiến hóa để suy nghĩ theo
chiều hướng phát triển cấp số mũ. “Đó
là vấn đề trực giác.
Những then máy tiên đoán cố hữu của chúng
ta thuộc bậc một. Khi cố tránh một con vật,
chúng ta xử dụng lối tiên đoán bậc một
để đoán con vật đi về đâu trong ṿng 20
phút và phải làm ǵ để tránh nó. Tiến tŕnh đó được
thực sự cấu trúc trong năo bộ của chúng ta.” Đây là những ǵ mà các
đường cong đă nói với ông. Chúng ta sẽ thành công trong việc
đảo ngược qui tŕnh (reverse-engineer) năo bộ của
con người vào khoảng giữa thập niên 2020. Vào cuối thập niên đó, những
máy vi tính sẽ có khả năng thông minh như của con
người. Kurzweil xác định
thời điểm của Đơn Trạng: năm 2045 –
xin đừng bao giờ nói rằng ông ta cấp tiến
quá. Ông ước đoán vào năm đó, dựa theo những
gia tăng lớn lao trong hiệu năng vi tính và những
sút giảm lớn lao trong giá thành tương ứng, số
lượng trí khôn nhân tạo
được tạo ra sẽ khoảng một tỉ lần
tổng số của tất cả trí khôn nhân loại hiện
có ngày nay. Đơn Trạng
không chỉ là một khái niệm.
Nó lôi cuốn con người, và những con người
đó cảm thấy bị ràng buộc lẫn nhau. Gộp lại nhau, họ tạo
ra một phong trào, một thứ-văn-hóa (subculture);
Kurzweil gọi nó là một cộng đồng. Một khi quyết định xem
xét Đơn Trạng một cách nghiêm chỉnh, bạn sẽ
thấy rằng bạn đă trở thành phần tử của
một tập hợp nhỏ nhưng được phân bố
toàn cầu và cực độ bao gồm những tư
tưởng gia mệnh danh là những sinh vật
Đơn Trạng (Singularitarians) tương tự như
những tư tưởng gia có đầu óc thực sự.
Không phải tất cả họ đều là những sinh
vật Kurzweil, dứt khoát không.
Trong thuyết Đơn Trạng có nhiều quan điểm
khác nhau liên quan đến định nghĩa của từ
và liên quan đến thời gian và phương thức
Đơn Trạng sẽ xảy ra hay không xảy ra. Nhưng những người theo
thuyết Đơn Trạng có chung một thế giới
quan. Họ suy nghĩ dựa
trên thời gian sâu thẳm (deep time), họ tin vào sức mạnh
của kỹ thuật để tác động lên lịch
sử, họ ít quan tâm đến tư duy cổ truyền
về mọi sự việc, và họ không thể tin rằng
bạn cứ nhởn nha sống và xem TV như thể cuộc
cách mạng trí khôn nhân tạo sẽ không đột phá và
thay đổi triệt để toàn thế giới. Họ không sợ bị chế giễu; sự chán
ghét thường t́nh nơi bạn đối với những
ư tưởng bề ngoài có vẽ vô lư chính là một ví dụ
của thiên kiến phi lư, và những người theo thuyết
Đơn Trạng không chấp nhận phi lư. Khi đi vào không gian tư duy của
họ, bạn đi qua một dốc đứng trong thế
giới quan, một hủy lực siêu h́nh phân chia những
người theo thuyết Đơn Trạng với phần
c̣n lại của nhân loại.
Bạn hăy mong đợi sự quấy nhiễu.
Ngoài
Đại Học Singularity University, do Kurzweil sáng lập,
c̣n có Viện Đơn Trạng về Trí Khôn Nhân Tạo
(Singularity Institute for Artificial Intelligence), đặt cơ sở
tại San Francisco. Trong số
các cố vấn của Viện, có Peter Thiel, một cựu
CEO của PayPal và là một nhà đầu tư đầu
tiên của Facebook. Viện có tổ
chức một hội nghị hàng năm mang tên Hộp
Thưởng Đỉnh Đơn Trạng (Singularity
Summit). (Kurzweil cũng là đồng
sáng lập viên của Viện.)
V́ tính chất liên bộ môn của thuyết
Đơn Trạng nên nó lôi cuốn nhiều tầng lớp
khác nhau. Trí khôn nhân tạo là chủ đề chính, nhưng
các cuộc hội thảo cũng đề cập đến
những tiến bộ nhảy vọt của di truyền
học và điện tử đơn tử. Tại hội
nghị 2010, diễn ra vào tháng Tám tại San Francisco, không chỉ
có các khoa học gia vi tính mà c̣n có cả những nhà tâm lư học,
thần kinh học, điện tử đơn tử học,
sinh học phân tử, một chuyên viên về máy vi tính
đeo trên người (wearable computers), một giáo sư về
y khoa cấp cứu, một chuyên viên về tri giác
nơi loài chim két xám, và ảo
thuật gia chuyên nghiệp James Randi. Bầu không khí là một tổng hợp
lạ lùng giữa hội thảo Davos và hội thảo Đĩa
Bay. Những cổ động
viên chủ trương xây các cộng đồng trên biển
(seasteading) phân phát truyền đơn; đó là dự án c̣n
trong ṿng lư thuyết nhằm thành lập những cộng
đồng tự trị trên những vùng biển quốc
tế. Một người máy sinh học (android) chuyện
tṛ với những khách hội trong một góc.
Sau
trí khôn nhân tạo, đề tài được đề cập
đến nhiều nhất trong hội nghi 2010 là nối
dài tuổi thọ (life extension).
Những biên giới sinh học mà đa số người
nghĩ như là bất biến và không thể tránh
được th́ những người theo thuyết
Đơn Trạng chỉ thấy như những vấn
đề gay go nhưng vẫn có thể giải quyết
được. Chết là một
trong những vấn đề đó. Già là một bệnh tật giống
như bất kỳ bệnh tật nào khác, và bạn làm ǵ
với những bệnh tật?
Bạn chửa trị chúng. Tương tự như
nhiều quan niệm theo thuyết Đơn Trạng,
điều đó trước tiên nghe có vẻ khôi hài,
nhưng nếu xét cho kỹ th́ nó dường như ít có vẻ
ǵ khôi hài cho lắm. Đó không
chỉ là lối suy nghĩ đầy mong ước; thực
sự có khoa học trong đó.
Chẳng hạn, ai cũng biết rằng một
nguyên nhân của suy thoái thể xác gắn liền với tuổi
già có dính dáng đến chất tolemeres
ở hai đầu nhiểm sắc tố. Mỗi lần một tế bào
phân chia, những tolemeres nầy
thun ngắn lại, và một khi một tế bào hết những
tolemeres nó không thể sinh sản
được nữa và chết đi. Nhưng có một
chất xúc tác hữu cơ gọi là telomerase làm đảo ngược qui tŕnh; đó là một trong những lư do
những tế bào ung thư sống rất lâu. Như thế tại sao không chửa
trị những tế bào b́nh thường không ung thư với
telomerase? Vào tháng 11, những nhà nghiên cứu
tại Đại Học Y Khoa Harvard thông báo trong tập san
Nature rằng họ đă
làm đúng điều đó. Họ
đưa telomerase vào một
nhóm chuột đang bị suy thoái v́ lăo hóa. Chứng bệnh biến mất. Những con chuột không những
chỉ lành bệnh mà c̣n trẻ hơn ra.
Aubrey
de Grey là một trong những nhà nghiên cứu danh tiếng về
nối dài sự sống và là một thành viên lăo thành của
hội nghị thượng đỉnh. Vốn là một nhà sinh vật học
người Anh có bằng tiến sỹ của Đại
Học Cambridge và có bộ râu rất đáng sợ, de Grey
điều hành một cơ sở mang tên là SENS, hay Strategies for Engineered Negligible Senescence. Ông xem hiện tượng lăo
hóa như một quá tŕnh tích lũy những hư hỏng;
quá tŕnh nầy được chia ra làm 7 loại. Ông hi vọng một ngày nào đây
sẽ chửa trị mỗi loại bằng thuốc phục
hồi (regenerative medicine). Ông
nói, “Con người đă bắt
đầu nhận thấy tính lố bịch trong quan niệm
cho rằng lăo hóa là điều không thể thay đổi
được – như sự cạn kiệt nhiệt
lượng của vũ trụ.
Đó quả là ấu trĩ.”
Cơ thể con người là một cái máy có một
số chức năng, và nó tích lũy nhiều loại
hư hỏng như là biến chứng của chức
năng b́nh thường trong máy.
Do đó, trên nguyên tắc, hư hỏng đó có thể
được sửa chữa định kỳ. Đây là lư do tại sao chúng ta có
những xe cũ kĩ. Đó
thực sự là một vấn đề chăm sóc. Toàn bộ phương thuốc chỉ
gồm có tiếp tục táy máy trên những ǵ trông có vẻ
như không thể thay đổi được cho đến
khi nghĩ ra được cách làm cho nó có thể thay đổi
được.”
Kurzweil
cũng nh́n vấn đề nối dài tuổi thọ một
cách nghiêm chỉnh. Bố của
ông, người mà ông đă sống rất gần gũi,
chết v́ bệnh tim vào năm 58 tuổi. Kurzweil thừa
hưởng căn bệnh di truyền của bố; ông cũng
bị tiêu đường loại 2 khi mới 35 tuổi. Khi làm việc với Terry Grossman,
một bác sỹ chuyên về tuổi thọ, Kurzweil đă
xuất bản hai cuốn sách nói về phương án của
chính ông nhằm tăng tuổi thọ; phương án nầy
gồm có uống đến 200 viên thuốc bệnh và những
thuốc bổ mỗi ngày. Ông
cho biết bệnh tiểu đường của ông ơ bản đă chửa khỏi,
và mặc dù 62 tuổi tính theo niên đại, ông ước
tính tuổi sinh học của ông trẻ hơn khoảng 20
tuổi.
Nhưng
mục tiêu của ông hơi khác với mục tiêu của
Grey. Đối với Kurzweil,
điều quan trọng không phải là sống khỏe càng
lâu càng tốt, mà sống được cho đến thời
kỳ Đơn Trạng.
Đó là một cố gắng kéo dài. Một khi những trí khôn nhân tạo
siêu đẳng xuất hiện, được trang bị
với kỹ thuật điện tử đơn tử
tối tân, chúng sẽ thực sự có khả khả đương
đầu với những vấn đề hệ thống
cực kư phức tạp gắn liền với tiến
tŕnh lăo hóa nơi con người.
Hoặc lúc đó chúng ta sẽ có khả năng truyền
tải tri thức của chúng ta vào những thiết bị
như máy vi tính hay người máy. Kurzweil và nhiều lư thuyết
gia Đơn Trạng nghiên cứu
đứng đắn đề xuất cho rằng nhiều
người cón sống hiện nay sẽ trở nên bất
tử về mặt chức năng. Đó là một ư tưởng tỏ
ra vừa cấp tiến vừa cổ điển cùng một
lúc. Trong bài thơ “Sailing to Byzantium”, W.B. Yeats mô tả
phạm trù xương thịt của nhân loại như một
linh hồn được trói chặt vào một con vật
đang chết. Thay v́ thế,
tại sao không cởi trói nó và buộc nó vào một người
máy? Nhưng Kurzweil thấy rằng
nối dài tuổi thọ tạo ra thậm chí c̣n nhều
đối kháng hơn trong cử tọa so với những
đường cong biểu diễn về sự phát triển
theo cấp số mũ. Ông
nói, “Có người có thể chấp
nhận chuyện máy vi tính thông minh hơn con người. Nhưng ư tưởng liên quan
đến việc thay đổi đáng kể tuổi thọ
con người th́ h́nh như sẽ gây ra tranh căi gắt
gao. Con người đă đầu
tư nhiều nỗ lực trong một số triết lư
liên quan đến vấn đề sống chết. Tôi muốn nói, đó là lư do chính
chúng ta có tôn giáo.”
Đương nhiên, nhiều người nghĩ rằng
Đơn Trạng là vô nghĩa – ngông cuồng, tư duy
mơ ước, một phiên bản Silicon Valley của câu chuyện trong Kinh Thánh nói về
Cực Lạc (Rapture), thêu dệt do một người kiếm
sống bằng những tuyên bố gây phẩn nộ và
khoát chúng với khoa học giả hiệu. Hầu hết các nhà phê b́nh đứng
đắn đều tập
trung trên câu hỏi liệu một máy vi tính có thẻ thực
sự trở nên thông minh.
Toàn
bộ bộ môn trí khôn nhân tạo, hay AI (artificial
intelligence), tập trung vào câu hỏi nầy. Nhưng AI hiện nay không tạo
ra được loại trí khôn mà chúng ta liên hệ với
người hay thậm chí với những máy vi tính biết
nói trong phim ảnh – như HAL,
C3PO, hay Data. Trí khôn nhân tạo
thực sự có khuynh hướng chỉ có khả năng
thống lănh một địa hạt rất chuyên biệt
mà thôi, như diễn giải những lệnh truy tầm
hay chơi cờ vua. Chúng hoạt
động bên trong một khung qui chiếu chuyên biệt tuyệt
đối. Chúng không biết
đàm thoại tại các buổi tiệc. Chúng thông minh, nhưng chỉ theo một
định nghĩa vô cùng hạn hẹp của bạn. Loại
trí khôn mà Kurzweil đề cập đến, mệnh danh là
strong AI hay artificial general intelligence (trí khôn nhân tạo tổng
quát), vẫn chưa có. Tại sao chưa? Đương nhiên chúng ta c̣n
đang trông nơi hiệu năng vi tính đang phát triển
theo cấp số mũ kia.
Nhưng cũng có thể có những sự kiện
đang diễn ra trong năo bộ của chúng ta; những sự
kiện đó không thể sao lại (duplicated) bằng
điện tử dù có đưa vào bao nhiêu lệnh trong một
giây đi nữa. Cấu trúc
thần kinh hóa học (neurochemical) – vốn tạo ra những
hổn loạn ảo tưởng mà chúng ta biết đến
như ư thức nơi con người – quả quá ư phức
tạp và mang bản chất quá định h́nh nên không thể
sao chép theo kỹ thuật định số. Nhà sinh vật học Dennis Bray là một
trong một số ít người lên tiếng bất đồng
trong Cuộc Họp Thượng Đỉnh về
Đơn Trạng mùa hè vừa qua.
Trong một cuộc nói chuyện mang tên “What Cells Can Do that Robots Can’t – Những
ǵ các tế bào có thể làm mà những người máy không
thể”, ông lư luận, “Mặc dù những thành tố sinh
học hoạt động theo những cách tương tự
như những thành tố trong các mạch điện tử,
chúng được xếp đặt riêng bằng một số trạng
thái khác nhau mà chúng có thể thích chấp nhận. Nhiều tiến tŕnh sinh hóa tạo
ra những thay đổi hóa học nơi những phân tử
protein; những phân tử nầy bị phân hóa hơn nữa
do liên kết với những cấu trúc riêng biệt tại
những vị trí nhất định của một tế
bào. Hiện tượng bùng nổ tổng hợp (combinatorial
explosion) tiếp theo của những trạng thái ban cho những
hệ sinh vật một khả năng gần như vô hạn
nhằm tồn trử những thông tin liên quan đến
những điều kiện
quá khứ và hiện tại và một khả năng duy nhất
chuẩn bị cho những biến cố tương lai.”
Điều đó khiến cho những bit 1 và bit 0
mà máy vi tính xử dụng trông khá thô thiển.
Bên
dưới những thách thức thực tế là vô số
những thách thức triết học. Giả thử chúng ta tạo ra một
máy vi tính biết nói và hành động theo một cách không
khác ǵ con người – nói cách khác, một máy vi tính có thể
thắng được trắc nghiệm Turing (Turing test(*)). (Nói một
cách nôm na, một máy như thế
sẽ có thể thắng một cuộc thi mù – blind test(**).) Thế có nghĩa là máy vi tính là biết
ri giác, như con người?
Hay nó chỉ cực kỳ tinh xảo nhưng chủ
yếu vẫn là một máy tự động không có tác
động bí ẩn của ư thức – một máy không có
bóng ma trong đó? Và làm sao chúng
ta biết?
(*) Turing’s Test là một
trắc nghiệm khả năng của máy chứng minh
được trí khôn của ḿnh.
Cuộc trắc nghiệm diển ra như sau: Một người trọng tài
đối thoại b́nh thường với hai đấi
thủ trong một tṛ chơi; đấi thủ A là máy và B
là người; mỗi đấi thủ cố chứng tỏ
ḿnh là người. Các thành phần
được sắp xếp trong những vị trí biệt
lập. Nếu trọng tài
không thể phân định chắc chắn ai là người
th́ máy được coi như thắng cuộc. - (Phụ chú của người
chuyển ngữ)
(**)Blind Test hay Blind Experiment là một thí
nghiệm khoa học trong đó số người tham gia
không được cho biết thông tin nào có thể
đưa đến thiên kiến có ư thức hoặc vô thức
về phần ḿnh khiến vô hiệu hóa kết quả. Ví dụ,
khi yêu cầu khách hàng so sánh sở thích về những nhản
hiệu khác nhau của cùng một mặt hàng, danh tánh (nhản
hiệu) của mặt hàng nầy phải được
dấu kín – nếu không thường thường khách hàng
sẽ có khuynh hướng thích nhản hiệu mà họ
quen dùng. - (Phụ chú của người chuyển ngữ)
Ngay
cả nếu bạn tin chắc rằng Đơn Trạng
là có thể xảy ra đi nữa, bạn vẫn c̣n phải
đối phó với một rừng câu hỏi không thể
trả lời được.
Nếu bạn có thể truyển tải (scan) ư thức
của tôi vào một máy vi tính th́ liệu tôi c̣n là tôi nữa
không? Đường lối ngoại giao và các chính sách kinh
tế xă hội của Đơn Trạng là ǵ? Ai quyết
định ai sẽ là bất tử? Ai vạch đường
phân ranh giữa tri thức và không tri thức? Và khi chúng ta tiến gần đến
bất tử (immortality), toàn tri (omniscience) và toàn năng
(omnipotence), liệu đời
sống của chúng ta sẽ vẫn c̣n ư nghĩa? Bằng cách đánh đuổi cái
chết, liệu chúng ta sẽ mất hết nhân lọai
tính chủ yếu của chúng ta?
Kurzweil nh́n nhận sẽ có một mức độ rủi
ro căn bản liên kết với Đơn Trạng không
thể gạt bỏ được, đơn giản bởi
v́ chúng ta không biết một trí khôn nhân tạo tinh xảo sẽ
quyết định làm ǵ khi tự thấy ḿnh là một
cư dân mới sản sinh ra trên hành tinh Trái Đất. Nó
có thể không có ư định cạnh tranh với chúng ta
để chiếm lấy tài nguyên.
Một trong những mục tiêu của Viện
Đơn Trạng là không những chỉ bảo đảm
rằng những trí khôn nhân tạo sẽ phát triển mà c̣n
bảo đảm rằng trí khôn đó sẽ thân thiện
với chúng ta. Bạn không cần
phải là một sinh vật vi tính siêu thông minh mới hiểu
được rằng đưa một h́nh thức sống
siêu đẳng vào môi trường sinh học là một sai
lầm căn bản về tiến hóa Darwin. Nếu Đơn Trạng đến,
những câu hỏi nầy sẽ có câu trả lời cho dù
bạn thích nó hay không thích nó, và Kurzweil nghĩ rằng gạt
bỏ Đơn Trạng ra, gạt bỏ kỹ thuật
không những không thể làm được mà c̣n vô đạo đức và có thể nguy hiểm nữa. Ông nói, “Phải
cần có một chế độ độc tài mới có
thể thực hiện một sự chối bỏ như
thế. Ư đồ đó không hiệu quả. Nó sẽ chỉ chôn những kỹ
thuật nầy xuống đất, nơi những khoa học
gia có trách nhiệm mà chúng ta hi vọng sẽ chống trả
sẽ không dễ dàng truy cập được những dụng
cụ. ” Kurzweil là một nhà tranh biện rốc ráo và chứng
tỏ ḷng kiên định gần như không phải của
con người. Ông thích điều
đó. Ông bám theo những
người phê b́nh ông một cách không mệt mỏi đế
có thể đối ứng với họ, từng điểm
một, cẩn thận và chi tiết.
Chúng
ta hăy xem xét câu hỏi liệu máy vi tính có thể sao chép
được sự phức tạp sinh hóa của một
năo bộ hữu cơ. Kurzweil
trả lời đầy đủ ở đây. Ông không thấy sự khác biệt
căn bản nào giửa da thịt và silicon khiến silicon
không thể suy nghĩ. Ông thách
đố các nhà sinh học đưa ra một bộ thần
kinh mà nhu liệu chạy trên máy vi tính không thể mô h́nh hóa
hay ít ra mô phỏng về mặt hiệu năng và sức
linh động. Ông không chịu
thua trước sự bí mật của năo bộ con người. Ông nói, “Nói
chung, điểm then chốt của sự bất đồng
giữa tôi và những người phê b́nh chính là, họ sẽ
nói, Ồ, Kurzweil đang đánh giá thấp sự phức tạp
trong kỹ thuật đảo ngược qui tŕnh (reverse-engineering)
của năo bộ con người hay sự phức tạp của
sinh vật học. Nhưng tôi
không tin rằng tôi đang đánh giá thấp sự thách thức. Tôi nghĩ họ đang đánh
giá thấp hiệu năng của sự phát triển theo cấp
số mũ.”
Lập
trường nầy không khiến cho Kurzweil trở thành một
kẻ lạc loài, ít nhất đối với những lư
thuyết gia Đơn Trạng.
Nhiều người đưa những tiên đoán cực
đoan hơn thế. Từ
năm 2005, khoa học gia về thần kinh Henry Markram cho
thí nghiệm một sáng kiến tại Viện Nghiên Cứu
Năo Bộ Brain Mind Institute thuộc
trường Bách Khoa ở Lausane, Thụy Sỹ. Sáng kiến nầy mang tên là dự
án Blue Brain, và đây là một
cố gắng tạo ra một mô phỏng từng tế
bào thần kinh một của năo bộ của loài động
vật có vú, bằng cách xử dụng loại máy siêu vi
tính Blue Gene của IBM. Cho đến nay, toán của
Markram đă thành công mô phỏng được một cột
tân vỏ năo (neocortical column) từ năo một con chuột; cột
nầy chứa khoảng 10,000 tế bào năo. Markram nói rằng ông hi vọng sẽ
có được một năo bộ nhân tạo hoàn chỉnh
hoạt động trong ṿng 10 năm tới đây. (Nếu
dự án đó thành công th́ c̣n phải giáo dục năo bộ,
và không ai biết sẽ mất bao lâu.)
Theo
định nghĩa, tương lai bên kia Đơn Trạng
không thể nhận biết bằng năo bộ động vật,
hóa học, bậc một, nhưng Kurzweil có nhiều lư thuyết về vấn
đề nầy. Ông nỗ lực
suy nghĩ mỗi ngày một rộng lớn hơn; chúng ta
có thể thấy ông chống chọi với những giới
hạn của bộ máy hữu cơ đang lăo hóa. Ông nói, “ Khi con người nh́n vào những hàm ngụ của sự
phát triển cấp số mũ đang xảy ra, sự
phát triển đó càng ngày càng khó chấp nhận. Do đó bạn có thể gặp
được những người thực sự chấp
nhận, vâng, mọi sự đang tiến bộ theo cấp
số mũ, nhưng họ có thể ngă ngựa tại một
điểm nào đó v́ những hàm ngụ quá ư kỳ ảo. Tôi đă cố tự thúc đẩy
ḿnh để quan sát thực sự.”
Trong
tương lai của Kurzweil, kỹ thuật sinh học và
kỹ thuật điện tử đơn tử cho chúng ta khả năng thao tác
cơ thể của chúng ta và thế giới chung quanh chúng
ta theo ư muốn, ở tŕnh độ phân tử. Sự tiến bộ tăng tốc
vượt mức, và mỗi giờ mang lại những
thành quả bằng cả một thế kỷ. Chúng ta qua mặt Darwin và tự
đảm trách sự tiến hóa của chính chúng ta. Hệ
gen (genome) của con người
trở nên quá nhiều mă ngữ (code) cần phải kiểm
tra bọ (bug-test) và tối ưu hóa và, nếu cần, phải
được viết lại.
Kéo dài tuổi thọ vô hạn trở nên một thực
tế; con người chỉ chết khi họ muốn thế. Tử thần vĩnh viễn mất
hết quyền năng của nó.
Kurzweil hi vọng phục hồi sự sống cho
người bố đă chết.
Chúng
ta có thể truyền tải tri thức của chúng ta vào các máy vi tính và đi vào một
hiện hữu tiềm năng hay hoán đổi thân thể
của chúng ta với những người máy bất tử
và chiếu sáng nơi biên thùy không gian như những thiên thần
liên thiên hà. Chỉ trong ṿng vài
thế kỷ, trí khôn nhân loại sẽ đảo ngược
qui tŕnh và thấu triệt mọi vật thể trong vũ
trụ. Kurzweil tin tưởng
đây là định mệnh của chúng ta như một chủng
loại. Hoặc không phải
là thế. Khi những câu hỏi
lớn được trả lời, nhiều hành động
sẽ xảy ra nơi mà không ai có thể thấy được
chúng, sâu bên trong những năo bộ silicon màu đen của các máy vi tính,; những máy nầy
hoặc sẽ nở rộ từng bit một trong ư thức con người hoặc chỉ
tiếp tục trong những đáo tŕnh (iterations) hiệu
năng hơn và xuất sắc hơn của vô thức
(nonsentience). Nhưng đối
với những câu hỏi thứ yếu, chúng đă
được quyết định chung quanh chúng ta và qua mắt
thường. Càng đọc về
Đơn Trạng bạn càng bắt đầu thấy nó
lén nh́n bạn, bẽn lẽn, từ những phương
hướng bất ngờ.
Năm năm trước chúng ta không có 600 triệu
người tiến hành cuộc sống xă hội của họ
qua một mạng điện tử duy nhất. Ngày nay, chúng ta có Facebook. Năm
năm trước bạn
không thấy con người đắn đo kỹ lưởng
(double-check) những ǵ họ nói và nơi nào họ đi,
ngay cả khi họ đang nói điều đó và đang
đi ở đó, nhờ vào khoa học chế tạo bộ
phận giả định số cầm tay nối vào mạng
(network-enabled digital prosthetics). Ngày nay, chúng ta có iPhones. Phải chăng đó là một bước
khó tưởng tượng nỗi nếu lấy iPhones ra
khỏi tay và đặt chúng vào trong sọ của chúng ta?
Đă
có 30,000 người mắc bệnh Parkinson đă ghép những thần kinh thay thế
(neural implants). Google đang thử
nghiệm những máy vi tính có thể lái xe được. Có hơn 2,000 người máy
đang chiến đấu ở Afghanistan bên cạnh những
người lính. Tháng nầy,
2/2011, một lần nữa một cuộc thi đố sẽ
xuất hiện trong lịch sử trí khôn nhân tạo,
nhưng lần nầy máy vi tính sẽ là khách: một máy
siêu vi tính của IBM mang tên Watson
sẽ thi đấu trên chương tŕnh truyền h́nh Jeopardy! Watson chạy trên 90
trung tâm dịch vụ (servers) và chiếm trọn một
pḥng, và trong một cuộc thực tập vào tháng 1/2011, nó
dẫn trước hai cựu vô địch, Ken Jennings và
Brad Rutter. Nó đă trả lời đúng mọi câu hỏi,
nhưng điều quan trọng hơn nhiều là nó không cần
ai giúp để hiểu các câu hỏi (hay cụ thể
hơn, là biết câu trả lời), được thực
hiện bằng tiếng Anh thông thường. Trong cuộc thi thực sự, ở
mấy phút đầu Watson khởi động chậm chạp
và bị các cựu vô địch dẫn trước. Sau đó máy siêu vi tính nầy
đă lấy lại phong độ một cách quyết liệt. Cuối cùng ở trận chung kết,
Watson đă thắng rất xa, đem về tổng cộng
$77,147, so với $24,000 của Ken Jennings và $21,600 của Brad
Rutter.
Một
trăm năm tới đây, Kurzweil, de Grey, và những
người khác sẽ có thể là câu trả lời của
thế kỷ 22 cho các tiền bối sáng lập – có khác một
điều là, không như các tiền bối sáng lập, họ
sẽ vẫn c̣n sống để nhận lấy công trạng
– hay những quan niệm của họ sẽ có thể
trông lạc hậu buồn cười và cổ lỗ
như Tomorrowland của
Disney. Không ǵ mau cũ bằng
tương lai. Nhưng ngay cả
nếu họ hoàn toàn sai về tương lai, họ vẫn
đúng vè hiện tại. Họ
đang có cái nh́n xa và nh́n vào bức tranh lớn. Bạn có thể bác bỏ mọi
điều khoản đặc thù trong hiến
chương Đơn Trạng, nhưng bạn nên khâm phục
Kurzweil đă nh́n tương lai một cách nghiêm chỉnh. Thuyết Đơn Trạng đặt
cơ sở trên quan niệm cho rằng thay đổi là có
thực và nhân loại chịu trách nhiệm về số phận
của chính ḿnh và lịch sử có thể không đơn giản
như tiếp nối chuyện nầy sang chuyện khác.
Kurzweil muốn chỉ ra rằng, so với một máy vi tính
mà ông ta có 40 năm trước đây ở Đại Học
MIT, máy điện thoại cầm tay trung b́nh của bạn
có kích thước khoảng một triệu lần nhỏ
hơn, gía thành một triệu thấp hơn, và một ngàn lần mạnh
hơn. Thử tưởng
tượng 40 sắp đến, thế giới sẽ ra
sao? Nếu thực sự muốn
h́nh dung nó ra th́ bạn phải nghĩ rất, rất xa bên
ngoài cái hộp. Hay có thể bạn
phải nghĩ xa hơn bên trong, xa hơn bất kỳ ai khác
đă nghĩ.