Siêu Thức nơi Trí
Khôn Nhân Tạo
Người nhân tạo
đă vượt qua thách thức là tri giác được
chính ḿnh và suy nghĩ trên những tư duy của chính
ḿnh. Đây chính là một
phần trong nổ lực phát triển những
người máy có thể thích nghi được với những
hoàn cảnh bất khả tiên liệu.
Một ngày nào đó,
những người máy có thể truy nguyên được
nguồn gốc ư thức của ḿnh dọc theo những
thí nghiệm nhằm trang bị cho chúng khả năng
phản suy trên tư duy của chính chúng.
Hod
Lipson, chuyên gia về người máy tại Phóng Thí
Nghiệm Tổng Hợp Vi Tính tại Đại Học
Cornell University, giải thích
rằng, mặc dù tạo dựng khả năng nội suy
cho người máy có vẻ như khoa học giả
tưởng hơn là khoa học thực sự, có những
lư do thực tiển vững chắc để làm
được điều đó.
Ông nói “Thách thức lớn nhất đối với
người máy ngày nay là h́nh dung phương thức thích
nghi với những hoàn cảnh mới. Có hàng triệu người máy
ngoài kia, phần lớn ở trong những nhà máy, và nếu
mọi việc được đặt đúng chỗ,
vào đúng thời điểm th́ những người máy
là những siêu nhân về mặt chính xác, hiệu năng,
tốc độ, khả năng làm việc liên tục 24
trên 24 và 7 ngày mỗi tuần trong những môi trường
độc hại – nhưng nếu một đinh ốc
rơi ra th́ kể như xong.”
Ông tiếp, “V́ thiếu khả năng thích
ứng đó nên chúng ta không có nhiều rô-bô để ở
tư gia, vốn không được cấu trúc như
ở tại nhà máy. Vấn đề then chốt
đối với rô-bô là tạo ra một mô h́nh của
chính chúng để chúng h́nh dung được cái ǵ
hoạt động và cái ǵ không hoạt động
để mà thích ứng hành động.”
Người máy biết nội suy
|
Do đó, Lipson và
những đồng sự của ông đă triển khai
một người máy h́nh thù giống như một con sao
biển có bốn chân. Năo
bộ, hay bộ điều hành của nó xây dựng
một mô h́nh về cơ thể của chính nó. Các nhà nghiên cứu khởi
động người máy với một số kiến
thức liên quan đến những máy móc và các thành tố
khác mà nó có, nhưng không quan tâm đến những thứ
nầy được sắp xếp ra sao, và họ ra
lệnh cho nó di chuyển. Qua ṃ mẫm, nhờ nhận
được những phản ảnh từ các máy cảm
ứng liên quan đến mỗi động tác, máy đă
xử dụng những mô phỏng lặp đi lặp
lại để h́nh dung cơ thể của nó
được lắp ráp ra sao và tự ḿnh triển khai
một h́nh thức di chuyển vụng về nhưng
hiệu quả.
Ông nói, “Sau đó, chúng tôi tháo ra một chân, và qua thời gian
h́nh ảnh nội suy của người máy thay đổi
và tập di chuyển không cần đến cái chân đă bị
tháo.”
Bây giờ, thay v́ bắt
người máy tự mô h́nh cơ thể của chúng, Lipson
và Juan Zagal, hiện ở Đại Học University of Chile
tại Santiago, đă triển khai những người máy
chủ yếu biết nội suy.
Họ hoàn tất những quá tŕnh như suy nghĩ
về suy nghĩ, hay c̣n gọi là siêu tri thức
(metacognition), bằng cách đặt hai bộ óc vào trong
một máy. Một bộ điều hành được
thẩm định qua quá tŕnh đuổi bắt những
đốm sáng tṛn màu xanh đang di chuyển tùy tiện và
né tránh những đốm đỏ tượng trưng
cho chất độc, trong khi bộ điều hành
thứ nh́ mô h́nh phương thức bộ điều hành
thứ nhất hành xử ra sao và đánh giá nó đă thành
công hay không.
Như thế tại sao
hai năo bộ lại có thể tốt hơn là một? Khi
nghiên cứu những động tác của bộ
điều hành thứ nhất, bộ điều hành thứ
nh́ có thể thực hiện những thay đổi
để thích ứng điều chỉnh những
thất bại. Chẳng
hạn, nó phân biệt những dữ kiện cảm
ứng nào đă khiến những đốm xanh trông thành
đỏ và những đốm đỏ trông thành
xanh. Theo cách nầy
người máy có thể thích ứng được
chỉ sau bốn đến mười thí nghiệm thực
sự thay v́ hàng ngàn thí nghiệm như trong những kỹ
thuật rô-bô theo tiến hóa cổ điển.
Josh
Bongard tuộc Đại Học University of Vermont cho
biết “Điều nầy
dẫn đến một phương pháp nhận diện
những hoàn cảnh nguy hiểm, học hỏi từ chúng
mà không cần phải thực sự kinh qua chúng. Đây là
điều cho đến nay không có được trong các
người máy.” Ngoài việc những người máy
biết suy nghĩ về những ǵ chúng suy nghĩ, Lipson và
những đồng sự của ông cũng đang tham ḍ
xem những người máy có thể mô h́nh những ǵ
người khác đang suy nghĩ, một đặc tính mà
các nhà tâm lư học gọi là “thuyết tinh thần – theory of
mind”. Chẳng hạn, họ
đă có một rô-bô biết quan sát một rô-bô khác di
chuyển về một nguồn sáng với những động
tác lung tung tùy tiện. Theo
thời gian, rô-rô quan sát có thể tiên đoán những di
chuyển của rô-bô khác khá tốt để biết
chỗ đặt một cái “bẩy” trên địa
bàn. Ông cho biết, “Cơ bản đó chính là
đọc tư duy. Công tŕnh
nghiên cứu cũng có thể soi sáng cho đề tài
rất khó về nội suy theo một góc độ mới
– nó hoạt động ra sao, tại sao nó phát triển và
phát triển như thế nào.”
Một
ứng dụng khả thể mà họ đă trắc
nghiệm về những máy nội suy là một chiếc
cầu mô h́nh, với những bộ cảm ứng liên
tục theo dơi những rung động trên khung của cây
cầu để triển khai một h́nh ảnh nội suy
về “cơ thể” của nó.
Lipson nói, “Trong những mô
phỏng, chúng tôi đă cho
thấy rằng nó có thể phát hiện những then
chuyền bị yếu đi sớm hơn nhiều so
với những phương pháp công chánh cổ
điển. Một ngày nào
đó, chiếc cầu sẽ không bỗng nhiên thức
dậy và nói ‘Hello’, nhưng theo một nghĩa sơ khai,
bạn có thể nói nó có một h́nh ảnh nội suy, đủ
để bật đèn đỏ nếu có điều ǵ
sai.”
Câu
hỏi then chốt đối với công tŕnh nghiên cứu
là liệu nó có thể thực sự đi xa đến
đâu.
Bongard
hỏi, “Đây là những rô-bô
rất đơn giản, có lẽ chỉ gồm có tám hay
mười bộ phận di chuyển, như thế
tương đối dễ xây dựng những mô h́nh. Nhưng nếu bạn đi
đến qui mô lớn hơn, liệu rô-bô c̣n có thể
thực hiện một mô h́nh tốt về chính nó nữa
không? Câu hỏi cũng liên quan
đến những người máy xă hội phụ trách
quan sát con người hay một cái ǵ khác phức
tạp. Vấn đề qui
mô chính là điều mà công tŕnh nghiên cứu đang xem xét
lúc nầy.”
Điều hấp
dẫn là việc nghiên cứu cũng cho thấy những
rô-bô có thể nhiểm những bệnh tinh thần nào. Chẳng hạn, rô-bô sao biển
vốn phát triển được một h́nh ảnh
về cơ thể của nó lại “đồng thời
mắc phải hội chứng ‘chân tay ma’, nghĩ rằng
nó có những chân tay tại những nơi nó thực
sự không có.” Theo Lipson, “Khi những rô-bô trở nên
phức tạp hơn và tự tiến hóa, chúng ta có thể
thấy xuất hiện nơi
chúng những h́nh thức rối loạn tương
tự vốn có nơi chúng ta, những con người.”