NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỮ GIẢ ĐỊNH CỦA

LOÀI NGƯỜI (HOMO SAPIENS)

Phần I

Đông Yên - Master, Computer Science

 (Phỏng theo Wikipedia và một số tài liệu Sinh Học & Nhân Chủng Học khác)

*** WARNING:: This article may be used, and only used, for educational and/or non-commercial purposes provided it is used as is , i.e., with proper citation and without modifications whatsoever.

 

Theo lịch trình tiến hóa, con người hiện đại (modern humans – hay homo sapiens) biểu tượng cho một chủng loại (genus) tiến hóa xa nhất so với các chủng loại khác được tóm lược trong sơ đồ đính kèm.  Nói chung tất cả mọi chủng loại được ước tính đã xuất hiện trước  đây khoảng 2 triệu rưởi năm.  Tất cả các chủng loại khác ngoài Homo sapiens đều bị tuyệt chủng.  Chủng loại Homo Neanderthalensis, thường đuợc coi là một họ hàng của loài người sống sót lâu nhất, đã biến dạng 24 ngàn năm trước đây.  Tuy nhiên, một khám phá gần đây cho thấy một chủng loại khác là Homo floresiensis có thể đã tồn tại lâu hơn cho mãi đến 12 ngàn năm gần đây.

Một số nhà động vật học cho rằng hai giống chimpanzees (tinh tinh - thường được xếp trong chủng loại Pan), và gorrilas (khỉ độc - xếp trong chủng loại Gorilla) nên được xếp chung với chủng loại người dựa trên những tương đồng về di truyền.  Phần lớn các khoa học gia cho rằng chimpanzees và gorillas có quá nhiều dị biệt về cấu trúc cơ thể (anatomical differences) giửa chúng với nhau và giửa chúng với người nên không thể xem là cùng chủng loại với người.  Căn cứ trên những tương đồng về hình thái (morphological similarities), chủng loại người (Homo) có liên hệ rất gần với những chủng loại người khác đã tuyệt chủng (Homini), nhất là chủng loại Kenyanthropus, Paranthropus, và Australopithecus.  Cho đến năm 2007, chưa có một định danh nào được chấp nhận một cách thống nhất và phổ cập liên quan đến nguồn gốc của loài người.

 

Người (Human beings, humans hay man) là những động vật linh trưởng đi trên hai chân (bipedal primates) thuộc họ Hominidae (xem lược đồ bên trên).  Dữ kiện DNA cho thấy loài người phát xuất từ Phi Châu khoảng 200,000 năm trước đây.  Người có bộ óc phát triển cao, có khả năng suy luận trừu tượng, ngôn ngữ, nội suy, giải quyết vấn đề, và cảm tính.  Phối hợp với tư thế đứng thẳng của cơ thể giúp cho tay chân tự do thao tác mọi vật, khả năng trí tuệ nầy đã cho phép con người sữ dụng những dụng cụ đắc lực hơn các chủng loại khác.  Loài người được phân tán đi khắp toàn cầu, trên mọi lục địa, trừ hai miền địa cực.  Dân số trên thế giới vượt quá 6.7 tỷ, tính đến tháng 7/2008. Đấy mới chĩ là một thứ loại (subspecies) còn tồn tại của chủng loại Homo sapiens, tức Homo sapiens sapiens.  Cho đến năm 2008, loài người được Hiệp Hội Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên (International Union for Conservation of Nature) liệt kê như là một chủng loại ít lo bị tuyệt chủng nhất.

 

Cũng như hầu hết các động vật linh trưởng cao cấp khác, con người từ bản chất có tính xã hội.  Con người đặc biệt có năng khiếu sữ dụng những hệ thống truyền thông để tự biểu hiện, trao đổi ý kiến, và tổ chức. Con người tạo ra những cơ chế xã hội phức tạp gồm nhiều nhóm hợp tác và cạnh tranh với nhau, từ gia đình đến quốc gia.  Đối tác xã hội giửa con người đã thiết lập nên vô số những truyền thống, tập tục, đạo lý, giá trị, qui luật xã hội, và luật pháp.  Cùng với ước muốn tự biểu hiện, tất cả những yếu tố trên gộp lại tạo thành nền tảng của xã hội.  Con người đặc biệt yêu chuộng vẻ đẹp và thẩm mỹ, từ đó, cộng với ước muốn tự biểu hiện, đã đưa đến những cải thiện văn hoá như nghệ thuật, văn chương và âm nhạc.

 

Điểm nổi bật của con người là ý muốn tìm hiểu và tạo ảnh hưởng lên thế giới chung quanh, tìm cách giải thích và phân tích những hiện tượng thiên nhiên qua triết học, nghệ thuật, khoa học, thần học, và tôn giáo.  Tính hiếu kỳ thiên nhiên đó đã giúp phát triển những dụng cụ và năng khiếu cao cấp.  Con người là chủng loại duy nhất biết tạo ra lửa, nấu thức ăn, may quần áo để mặc.  Họ cũng phân tích và triển khai nhiều kỹ thuật khác.  Qua giáo dục con người truyền đạt những năng khiếu và kiến thức của mình cho các thế hệ sau.

 

Mục Lục

 

  1. Lịch sữ

·        Nguồn gốc

·        Giai đoạn chuyển tiếp đến thời kỳ văn minh

  1. Môi trường sống và dân số
  2. Sinh vật học

·        Sinh lý học và Di truyền học

·        Chu kỳ sống

·        Chế độ ăn uống

 

 

  1. Lịch Sữ

 

1.1 Nguồn gốc

Khoa học về tiến hoá loài người bao gồm sự phát triển của chủng loại Homo (người), nhưng thường bao gồm cả những họ hàng hominids (khỉ không đuôi - thuộc họ Hominidae, gồm có người, tinh tinh, khỉ độc, và đười ươi ) và hominines (Homininae - một thứ hệ của Hominidae, gồm có người và một vài họ hàng đã tuyệt chủng cũng như khỉ độc, và tinh tinh).  (Xin xem lược đồ bên trên).  Australopethecus là một trong những họ hàng đã bị tuyệt chủng nói trên, được coi là thủy tổ của loài người bắt đầu đi bằng hai chân, nhưng không có bộ óc lớn như “loài ngườI tân tiến – modern humans”. “Loài người tân tiến” (Modern humans) được định nghĩa là một chủng loại (species) của Homo sapiens.  Trong số những thứ loại (subspecies) của Homo sapiens chĩ có Homo  sapiens sapiens là còn tồn tại.  Một thứ loại khác là Homo sapiens idaltu đả bị tuyệt chủng.  Riêng về Homo neanderthalensis, tuyệt chủng trước đây 30,000 năm, có lúc được coi là một thứ loại với tên “Homo sapiens neanderthalensis”.  Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền cho thấy một tách biệt giửa nhóm nầy với homo sapiens đã xảy ra ít nhất 400,000 năm trước đây.  Về mặt cấu trúc cơ thể, loài người tân tiến (modern humans) xuất hiện đầu tiên trong một hóa thạch tại Phi Châu 130,000 năm trước đây, mặc dù những nghiên cứu sinh học phân tữ (molecular biology) chứng minh thời điểm tách biệt của tất cả chủng loại tân tiến đối với thủy tổ của họ ứơc tính là 200,000 năm trước đây.

 

 

 

Họ hàng gần gủi nhất của Homo sapiens là hai giống tinh tinh (chimpanzee):  Common chimpanzee và Bonobo. 

Phân tích tiến trình hệ gene đã cho thấy rằng sau 6 triệu rưởi năm tiến hoá độc lập, sự khác biệt giửa tinh tinh và người chĩ 10 lần lớn hơn khác biệt giửa hai giống người biệt lập, và 10 lần nhỏ hơn những khác biệt giửa chuột cống (rats) và chuột thường (mice).  Sát xuất đồng hành trong tiến trình biến đổi DNA giửa người và tinh tinh được ước tính từ 95% đến 99%.  Qui trình tiến hoá của loài người ước tính đã tách biệt khỏi qui trình tiến hóa của tinh tinh (chimpanzees) khoảng 5 triệu năm trước đây, và đã tách biệt khỏi qui trình tiến hóa của khỉ độc (gorillas) khoảng 8 triệu năm trước đây. Tuy nhiên, một sọ khỉ thuộc loại hominid (họ hàng với người)  tìm thấy ở Cộng hòa Trung Phi, Chad, năm 2001 ước tính đả có 7 triệu năm trước đây, nghĩa là sự tách biệt có thể đã xảy ra sớm hơn.

 

Thuyết “Người bắt nguồn từ Phi Châu” (RAO – Recent African Origin) cho rằng con người tân tiến (Modern humans) xét theo cấu trúc cơ thể chĩ phát triển ở Phi Châu trong khoảng 300,000 năm đến 200,000 năm trước đây.  Một trong hai nhánh của họ rời Phi Châu khoảng 60,000 năm trước, di dân ra ngoài để thay thế những họ hàng cùng chủng loại hominids với sức tiến hóa chậm hơn như Neanderthals và Homo erecteus trên các phần dất khác của địa cầu.  Giả thuyết nầy bắt nguồn từ những năm 1980 căn cứ trên sự nghiên cứu hiện nay về ty lạp thể DNA (mitochondrial DNA); và những người đề xướng đã đưa ra bằng chứng dựa vào nhân chủng sinh học (physical anthopology) của những mẫu khảo cổ.  Những bằng chứng từ khảo cổ di truyền học (archaeogenetics) tích lủy từ những năm 1990 đả hổ trợ mạnh mẻ giả thuyết nầy, và gạt ra ngoài giả thuyết cho rằng loài người, ít nhất một phần, đã tiến hóa lên từ những nhóm dân độc lập.  Các nhà di truyền học Lynn Jorde và Henry Harpending thuộc Đại học Utah cho thấy sự thay đổi DNA nơi loài người rất nhỏ so với những chủng loại khác.  Họ cũng cho thấy là vào cuối thời kỳ Đại băng hà (Late Pleistocene) nhân loại bị giản lược vào một số rất ít những cặp vợ chồng – không quá 10,000 cặp, hay có thể chĩ khoảng 1,000 cặp mà thôi – do đó nôi di truyền (gene pool) rất nhỏ.

 

Qui trình tiến hóa của loài ngườI chịu ảnh hưởng của những thay đổI quan trọng về hình thái, phát triển, tâm lý, sinh lý, và cư xữ.  Những  thay đổI nầy xảy ra từ lúc có sự ly gián (split) giửa tinh tinh (chimpanzees) và những lớp tiền hiền của nhân loạI (humans).  Sự thay đổI lớn đầu tiên về hình thái (first major morphological change) là sự tiến hóa do đòi hỏI thích nghi từ một động sống trên cây hay vừa trên cây vừa dướI đất (arboreal or semi-arboreal) sang động vật đi trên hai chân, vớI tất cả những khả năng thích nghi sẳn có như đầu gốI lồI, chân dài hơn tay, và sức mạnh phần trên thân thể bị giảm bớt. 

 

Sau nầy, tổ tiên con ngườI phát triển một bộ óc lớn hơn nhiều – trung bình 1,400 cm3 nơi ngườI tân tiến (modern humans), hơn hai lần bộ óc của một tinh tinh hay khỉ độc.  Mẫu phát triển của bộ óc ngườI sau khi sinh khác vớI mẫu phát triển của các loài khỉ không đuôi khác, một yếu tố giúp kéo dài thời gian học hỏi xã hội và ngôn ngữ lúc vị thành niên.  Các nhà nhân chủng sinh học (physical anthropologists) cho rằng những khác biệt trong cấu trúc của óc người và óc khỉ còn quan trọng hơn sự khác biệt về kích thước của những bộ óc đó.

 

Những thay đổi có ý nghĩa khác về hình thái gồm có:  cường độ và tính chích xác trong khả năng nắm bắt; hệ thống xương hàm nhỏ lại; răng nanh nhỏ lại; thanh quản và xương móng dưới đáy lưởi hạ thấp xuống, nhờ vậy người nói được.  Một thay đổi quan trọng về sinh lý nơi con người là tiến hóa của hiện tượng động hớn thầm kín, một hiện tượng có thể trùng hợp với sự tiến hoá của những thay đổi quan trọng về cư xữ, như cặp bạn chẳng hạn.  Một thay đổi quan trọng khác về cư xữ là sự phát triển của văn hoá vật chất, với những vật dụng nhân tạo mỗi ngày một trở nên phổ biến và đa dạng.

 

Sức mạnh của đào thải thiên nhiên đã tiếp tục tác động trên nhân loại, bằng chứng là một số khu vực của hệ gene (genome) biểu hiện sự đào thải theo định hướng (directional selection) trong 15,000 năm nay.  Đào thải theo định hướng là một trong sáu hình thức đào thải thiên nhiên được tóm lược như sau.

 

(1) Đào thải theo khả năng thích ứng (Fitness)

Đây là chủ đề trung tâm của Thuyết Darwin. Tính thích ứng của một chủng loại được đo lường trước tiên bằng số lượng con cái của mỗi cá thể.  Nhưng lớp con cái nầy phải tồn tại để sản sinh tiếp những thế hệ nối tiếp. Do đó, tính thích ứng là một giá trị xuyên thế hệ, nghỉa là căn cứ trên khả năng tồn tại và sản sinh nhiều hậu duệ ưu việt so với các đồng chủng khác.  Tính thích ứng  của một cá thể được định nghĩa theo số lượng con cái và khả năng truyền tải gene di truyền xuống thế hệ kế tiếp. 

 

(2) Đào thải theo bình quân (Stabilizing selection)

Đào thải theo bình quân chú trọng trên biến số trung bình, hay những biểu tính đại chúng. Loài chó chạy trên tuyết, chẳng hạn, được tuyển chọn dựa trên trọng lượng của thân thể không quá nặng nhưng cũng không quá gầy.  Nếu quá nặng thì chúng dể bị lún trong tuyết và chạy chậm; ngược lại, nếu quá gầy thì chúng không đủ mạnh để kéo xe và thiết bị.

 

(3) Đào thải theo định hướng (Directional selection)

Đào thải theo định hướng ưu đải những cá nhân mang một đặc tính vật lý do di truyền hay môi trường (phenotype) nào đó xuất hiện với tần số cao nhất qua nhiều thế hệ liên tiếp trong một dân số.  Theo toán học thống kê và sác xuất (statistics and probabilities) thì đỉểm qui chiếu của đào thải theo định hướng chính là những biến số biên độ cực đại (extreme variations) của các biểu tính (traits) mà cá nhân đó có.  Còn theo sinh vật học (biology) thì điểm qui chiếu đó là tần số biểu tính (allele frequency) ở vị trí gene (locus) trong bộ nhiểm sắc thể (Chromosome).  Muốn có những giống chó Grayhound chạy thật nhanh, chẳng hạn, trước tiên người ta phải chọn những con chạy nhanh nhất trong số chó hiện có.  Từ những lứa chó sinh ra từ những con được tuyển lựa nầy, nguời ta tuyển chọn những con chạy nhanh nhất; và cứ thê tiếp tục qua nhiều thế hệ.

 

(4) Đào thải theo đột biến (Disruptive selection)

Chủ yếu đây là một hình thức đào thải theo định hướng.  Điểm khác nhau là ở chổ chính những thay đổi đột ngột trong môi trường tạo ra những động lực đột xuất ưu đải những biến số biên độ cực đại.  Ví dụ những thay đổi đột ngột trong môi trường sống khi một thiên thạch đâm vào trài đất cách đây 65 triệu năm.  Lượng ánh sáng sụt giảm đột ngột khi bụi bốc lên bao phủ những vùng rộng lớn của trái đất.  Những đợt sóng thần quét sạch hàng dặm trên đất liền.  Rối loạn địa chấn tăng vọt.  Sự thiếu hụt thức ăn đột ngột tại các vùng duyên hải, dịch bệnh, bụi thâm nhập vào phổi có thể là bức xúc lớn nhất cho các loài động vật to lớn, vì chúng cần lượng oxy lớn để cung ứng năng lượng cho các cơ bắp.  Từ đó luật đào thải theo đột biến lập tức xảy ra, ưu đải những biểu tính (traits) nào giúp các sinh vật tồn tại được trong điều kiện môi sinh mới.

 

(5) Đào thải vì phân chủng (Selection by speciation)

Chủng loại (species) là một nhóm động vật có thể giao cấu với nhau và sinh sản được con cái củng có khả năng tương tự.  Khi nhóm động vật nầy không còn có thể sinh sản được với một nhóm khác, thì chúng được coi là hai chủng loại khác nhau.  Có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng nầy; nhưng điều kiện tiên quyết phải có là hiện tượng Cô lập sinh sản (Reproductive isolation).  Cô lập sinh sản là hoàn cảnh trong đó hai nhóm động vật bị cách ly với nhau và không thể gặp nhau để sinh sản. 

·              Phân chủng vì địa lý (Allopratic speciation):  Hoàn cảnh thường thấy nhất là sự cách ly địa lý (geographical isolation).  Trong trường hợp nầy, một yếu tố vật lý nào đó đã cách ly một bộ phận ra khỏi nhóm chính.  Sau khi bị tách rời như thế một thời gian dài, hai nhóm có thể phân ly với nhau về mặt vật lý hay cư xử (physical or behavioral).  Nếu điều nầy xảy ra thì chúng không còn có thể sinh sản được với nhau nữa nếu được hội ngộ lại.

·              Phân chủng vì hội nhập (Adaptive radiation): Khi một chủng loại trải qua nhiều môi trường sống khác nhau trong đó đã có sẳn những điều kiện và vai trò môi sinh nhất định (open niches). Vì môi trường mới khác với môi trường cũ, chủng loại nầy bị đặc trong một hình thức đào thảỉ theo định hướng, theo đó một biểu tính ưu đải (extreme trait) đả được chọn sẳn.

(6) Đào thải vì tuyệt chủng (Extinction)

Quy trình tiến hóa có thể có ba hệ quả.  Thứ nhất, một chủng loại có thể thành công trong mọi thay đổi về môi truờng sống, nhận chịu rất ít thay đổi.  Trường hợp thứ hai, qua trình đào thải thiên nhiên có thể đưa đến sự phân chủng, biến đổi sang một chủng loại mới.  Trưòng hợp thứ ba, một chủng loại có thể tự thấy mình không có những biểu tính cần yếu trong nôi gene (genepool) của mình có khả năng gíup đương đầu với những thay đổi cuả môi trường.  Trong trưòng hợp nầy, chủng loại đó có thể không còn khả năng sống đủ lâu để sinh sản.  Nếu điều nầy xảy ra thì chủng loại đó sẽ bị tuyệt chủng vĩnh viễn.

 

1.2  Chuyển tiếp sang thời kỳ văn minh

 

Quan điểm được chấp nhận rộng rải  nhất giửa các nhà nhân chủng học hiện đại là loài người (homo sapiens) bắt nguồn từ thảo nguyên Phi châu (African savana) khoảng 200,000 năm trước, hậu duệ của Homo erectus, từng sống trên hai lục địa Âu Á, Châu Đại Dương khoảng 40,000 năm trước đây, và đả sống tại Châu Mỹ ít nhất 14,500 năm trước đây.  Do sinh sản nhanh và cạnh tranh sinh tồn họ đã đánh đuổi chủng hệ Homo neanderthalensis và các chủng hệ khác của Homo erectus (từng sống tại hai lục địa Âu Á khoảng 2 triệu năm trước).

 

Cho đến 10,000 năn trước, đa số loài người sống bằng nghề săn bắn và hái trái.  Họ thường sống thành từng nhóm du mục mệnh danh là những xã hội băng nhóm (band societies).  Nông nghiệp ra đời đưa đến cuộc Cách mạng thời kỳ tân đò đá (Neolithic Revolution), khi thực phẩm dồi dào dẩn đến việc thành lập những vùng định cư cố định, nuôi súc vật và sữ dụng dụng cụ bằng kim loại.  Nông nghiệp đã thúc đẩy giao thương và hợp tác, và tạo nên xã hội phức tạp.  Chính vì ý nghĩa lớn lao của thời ky nầy nên nó được mệnh danh là kỹ nguyên nhân loại (Human Era hay Holocene calendar).

 

Khoảng 6,000 năm trước, những biểu mẫu quốc gia được phát triển tại Mesapotamia, vùng sa mạc Sahara, sông Nile, và Thung lủng sông indus.  Những lực lượng quân sự được thành lập để bảo vệ cùng với những định chế chính phủ để quản lý hành chánh.  Các quốc gia hợp tác và cạnh tranh với nhau vì tài nguyên, có khi đưa đến chiến tranh.  Khoảng 2,000-3,000 năm trước, một số quốc gia như Ba Tư, Ấn Độ, TrungHoa, La Mã, và Hy Lạp đi chinh phục để phát triển thành những đế quốc rộng lớn đầu tiên.  Những tôn giáo có ảnh hưởng như Do Thái giáo (Judaism), bắt nguồn từ Trung Đông, và Ấn Độ Giáo ở Nam Á, cũng vươn lên hàng ưu thế trong thời kỳ nầy.

 

Cuối thời Trung cỗ xuất hiện những tư tưởng cách mạng kỹ thuật.  Tại Trung Hoa, một xã hội tân tiến và đô thị hóa kích thích phát minh và khoa học, như in và gieo giống.  Thời đại Hoàng kim Hồi giáo (islamic Golden Age)vhứng kiến những phát triển khoa học trong các đế quốc Hồi giáo.  Tại Âu châu, sự tái phát của  trào lưu nghiên cứu kinh điển và những phát minh như in báo đã dẩn đến Thời kỳ Phục Hưng ở thế kỹ 14.  Suốt 500 năm sau đó, thám hiểm và xâm chiếm thực dân đã đặt nhiều phần đất của Mỹ châu, Á châu và Phi châu dưới sự kiểm soát của người Âu châu, đưa đến những cuộc chiến đấu dành độc lập sau đó.  Cuộc Cách mạng khoa học thế kỹ 17 và Cách mạng kỹ nghệ thế kỹ 18-19 đã phát động những phát minh về vận tải, như hoả xa và xe hơi,  phát triển năng lượng như than đá và điện lực, những chế độ chính trị như dân chủ đại nghị và chủ nghĩa Cộng sản.

 

Với thời đại tin học cuối thế kỹ 20, loài người sống trong một thế giới càng ngày càng toàn cầu hóa và nối kết với nhau.  Tính đến năm 2008, trên 1.4 tỷ người đã được nối kết với nhau qua internet và 3.3 tỷ người liên lạc với nhau qua điện thoại di động.

 

Trong khi sự nối kết giửa loài người với nhau đã đưa đến những phát triển về khoa học, nghệ thuật, hội thoại và kỹ thuật thì nó cũng đưa đến những xung đột về văn hoá, sự phát triển và sữ dụng những vũ khí giết người hàng loạt, và sự hủy hoại môi sinh và ô nhiểm gia tăng, ảnh hưởng không những loài người mà cả những sự sống khác trên địa cầu.

 

  1. Môi trường sống và dân số

 

Những khu vực định cư xưa kia của loài người lệ thuộc vào nguồn nước, lối sống, những tài nguyên thiên nhiên khác như đất cày cấy được để trồng hoa màu và chăn nuôi gia súc, hay để săn bắn theo mùa. Tuy nhiên, con người có một khả năng lớn biến cải môi trường sống bằng nhiều phương pháp, như dẩn thủy nhập điền, thiết kế đô thị, xây cất, vận tải, chế tạo sản phẩm, phá rừng và khai khẩn sa mạc.  Với đà phát triển giao thương qui mô và cơ cấu vận tải hạ tầng, việc tiếp cận với những nguồn tài nguyên nói trên trở nên không cần thiết; và ở nhiều nơi, những yếu tố nầy không còn là một động lực  phát triển hay suy thoái của một dân tộc.  Tuy nhiên, phương thức biến cải môi trường sống thường là một yếu tố chủ yếu quyết định sự thay đổi về dân cư.

 

Kỹ thuật đã cho phép con người bành trướng khắp các lục địa và thích nghi với tất cả các khí hậu.  Vào những thập niên mới đây, con người đã thám hiểm địa cực, những độ sâu của đại dương, và không gian, mặc dù việc định cư dài hạn trong những mội trường nầy còn chưa thực hiện được.  Với một dân số trên 6 tỷ, loài người thuộc những loại động vật có vú đông dân nhất.  Phần lớn nhân loại (61%) sống tại Á Châu.  Số còn lại sống tại Mỹ Châu (14%), Phi Châu (14%), Âu châu (11%), và Châu Đại Dương (0.5%).

 

Việc định cư con người trong những hệ thống môi sinh biệt lập (closed ecological systems) tại những môi trường thù nghịch như địa cực và ngoài bầu khí quyển rất ư tốn kém, hạn chế điển hình về thới gian, và chĩ dàng cho những thám hiểm khoa học, quân sự, hay kỹ nghệ mà thôi.  Sự sống của con người ngoài không gian cho đến nay rất là lác đác, con số không vượt quá 13 người trong một lần.  Giửa năm 1969 và 1972, hai người cùng một lúc lưu lại trên mặt trăng trong một thới gian ngắn. Tính đến đầu năm 20008, không có một hành tinh nào khác được con người viếng, mặc dù con người đã liên tục có mặt trong không gian từ khi phi hành đoàn đầu tiên được phóng lên Trạm Không Gian Quốc Tế (international Space Station) ngày 31/10/2000.  Tuy nhiên, các hành tinh khác đã được những thiết bị không gian nhân tạo đến viếng.

 

Từ năm 1800, nhân loại đã tăng rừ một tỷ lên hơn 6 tỷ.  Trong năm 2004, khoảng 2 tỷ rưởi trong số 6.3 tỷ (tức 39.7%) sống ở thành thị, và con số nầy ước tính sẽ tiếp tục tăng trong thế kỹ 21.  Tháng 2/2008, Liên Hiệp Quốc ước tính sẽ có một nửa dân số thế giới sống ở thành thị vào cuối năm.  Những vấn đề do việc con ngưòi sống ở các thành thị bao gồm nhiều dạng ô nhiểm và tội ác, nhất là tại những khu nhà ổ chuột trong nội thành và ngoại ô.  Lợi điểm của việc sống trong thị thành gồm có học vấn nâng cao, tiếp cận được với những trào lưu kiến thức nhân loại và bớt bị đe doạ bỡi những nạn đói như ở thôn quê.

 

Loài người đã tạo một ảnh hưởng lớn lên môi trường.  Có giả thuyết cho rằng săn bắn là một trong những yếu tố đưa đến sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật khác.  Vì hiếm khi bị săn đuổi bỡi các loài động vật khác nên  loài người được mô tả là những động vật săn mồi siêu đẳng (superpredators).  Hiện nay, qua khai phá đất đai và ô nhiểm, loài người bị quy trách nhiệm chính trong việc làm thay đổi khí hậu.  Người ta tin đây chính là nguyên tố chính thúc đẩy biến cố tuyệt chủng thứ sáu đang diển ra (ongoing Holocene extinction event hay sixth extinction event), một tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction) được tiên liệu sẽ xóa sạch phân nửa những chủng loại trong thế kỹ tới nếu cứ tiếp tục theo nhịp độ hiện nay.

 

  1. Sinh vật học

3.1  Sinh lý học và Di truyền học

Thân hình loài người phân dạng triệt để.  Mặc dù kích thước cơ thể phần lớn được quyết định bỡi gene, nó cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của những yếu tố môi trường như ẩm thực và tập luyện.  Chiều cao trung bình của một người trưởng thành là từ 1.5 m - 1.8m (5–6 feet), mặc dù con số nầy thay đổi rất nhiều tùy từng nơi.  Trọng lượng trung bình là 76–83 kg (168-183 lbs) đối với đàn ông và 54-64 kg (120-140 lbs) đối với đàn bà.  Cũng như kích thước, trọng lượng cũng thay đổi tùy theo khu vực địa lý.  Không giống các loài động vật linh trưòng khác, loài người có thể hoàn toàn đi bằng hai chân, giúp đôi tay tự do thao tác mọi vật, đăạ biệt nhờ tính cơ động của ngón cái.

 

 Mặc dù con người tương đối ít lông hơn các động vật linh trưởng khác, với số lượng tóc đáng chú ý mọc trên đầu, trong nách, vá các nơi khác của cơ thể, một người trung bình có nhiều chân lông trên cơ thể hơn một tinh tinh trung bình.  Điểm phân biệt lớn nhất là lông tóc người ngắn hơn, mịn hơn, nhạt màu hơn lông của tinh tinh, nhờ vậy nên khó nhận thấy hơn.

 

Màu tóc và da của người được quyết định bỡi chất melamins. Mảu da nguời có thể thay đổi từ nâu đen sậm đến hồng nhạt, tron gkhi tóc con gnười thay đổi từ nâu đỏ, sang nâu, đỏ, và phổ thông nhất là đen, tùy theo số lượng melamins có trong da và tóc.  Cường độ malamins giảm dần theo tuổi làm cho tóc bạc.  Phần lớn các nhà nghiên cứu đều tin rằng da thâm đen là do cơ năng thích ứng trong qui trình tiến hoá nhằm chống đở những tia cực tím của mặt trời.  Tuy nhiên, gần đây người ta cho rằng da đổi màu là quá trình thích ứng nhằm tạo quân bình giửa axit folic bị các tia cực tím tiêu hủy, và sinh tố D cần ánh sáng mặt trời để phát triển.  Màu da con người hiện tại được phân định theo địa lý, và nói chung tương ứng với mức độ tia cực tím phát ra.  Da con người cũng tự nó có khả năng thâm đi khi tiếp xúc với tia cực tím.  Con người có khuynh hướng yếu kém hơn về thể lực co với một động vật linh trưởng cùng kích thước.  Một nam giới trẻ với kích thước ấn định được chứng minh là không thể địch nổi với sức mạnh của một con dười ươi cái được tính ít nhất là 3 lần mạnh hơn.

 

So với các động vật linh trưởng khác, và theo tỷ lệ với các bộ phận cơ thê liên quan,  con người có hàm ếch (palates) và răng tương đối nhỏ hơn.  Người là động vật linh trưởng duy nhất dó răng nanh và đặc biệt răng rất nhiều nên nơi những người trẻ những lổ trống của những răng bị mất được lấp kín trở lại nhanh chóng. Con người từ từ mất dần răng khôn (wisdom teeth); có người không hề có răng khôn ngay khi mới sinh ra.

 

Yêu cầu ngủ trung bình là khoảng 7-8 tiếng mỗi ngày đối với người lớn, và 9-10 tiếng đối với trẻ con; ngưòi già thường ngủ từ6-7 tiếng mỗi ngày.  giờ ngủ bị giảm xuống là hiện tượng thông thường trong các xã hội hiện đại.  Hiện tượng nầy có thể dẩn đến những hệ quả tiêu cực.  Số giờ ngủ của một người lớn nếu cứ tiếp tục duy trì 4 tiếng mỗi ngày thì hệ quả cho thấy sẽ đưa đến những thay đổi về sinh lý, tâm thần, kể cả mẹt mỏi, hung hăng, và thân thể bất an.

 

Loài người là chủng loại mang tế bào nhân (eukaryotic species).  Mỗi tề bào kép (diploid cell) có hai bộ, mỗi bộ có 23 nhiểm dắc thể (chromosomes); một  bộ đến từ người cha và bộ kia đến từ người mẹ.  Trong số 23 cặp nhiểm sác thể nầy, có 22 cặp phi sinh sản (autosome) và một cặp sinh sản (sex chromosomes).  Theo ước tính hiện nay, con người có khoảng 20,000-25,000 genes.  Cũng như những động vật có vú khác, con người có một hệ thống XY để xác định giới tính (XY sex-determination system), theo đó nữ giới có nhiểm sắc thể XX và nam giới có nhiểm sắc thể XY.  Nhiểm sắc thể X thì lớn hơn và mang theo nhiều genes không có trong nhiểm sắc thể Y.

 

3.2  Chu kỳ sống

 

Chu kỳ sống của con người tương tự như chu kỳ sồng của các động vật có vú rau thai (placental mammals).  Trứng được thụ tinh phân chia trong tử cung đê trở thành phôi. Sau  thời gian từ 38 tuần phôi nầy trở thành một bào thai.  Sau đó, thai được phát triển đầy đủ nầy sinh ra từ cơ thể nguời mẹ và thở độc lập lần đầu như một em bé.  Ở điểm nầy, hầu hết qui định tư cách pháp nhân nầy sớm hơn khi bầu thai còn trong tữ cung.

 

So với các chủng loại khác, sự sinh con nơi người rất nguy hiểm.  Những đau đớn trước khi sinh kéo dài 24 tiếng hoặc hơn là bình thường và thưòng đưa đến tữ vong của người mẹ hay con vì đầu đứa bé to quá so với cửa mình hẹp của nggười mẹ.  Cơ may thành công trong sinh đẻ đã gia tăng đáng kể trong thế kỹ 20 ở các quốc gia giàu với kỹ thuật y khoa tân tiến.  Ngược lại mang thai và sinh đẻ tự nhiên tương đối vẫn còn nhiều rủi ro trong các nước đang phát triển, nơi tỷ lệ tữ vong cuả người mẹ gần 100% lớn hơn ở những nước phát triển.

 

Trong các nước phát triển, bé sơ sinh nặng khoảng 3-4 kg (6-9 lbs) và cao khoảng 50-60 cm (20-24 inches).  Tuy nhiên, trẻ sơ sinh thiếu ký là chuyện thường ở các nước nghèo, và là một trong những nguyên nhân nâng cao tỷ lệ tữ vong của trể sơ sinh tại các xứ nầy.  Từ chổ bất lực tuyệt đối lúc mới sinh ra, con người tiếp tục lớn lên đến gia đoạn trường thành về mặt tình dục ở tuồi từ 12-15.  Nữ giới tiếp tục phát triển cơ thể cho đến tuổi 18 trong khi nam giới tiếp tục phát triển cho đến 21 tuổi.  Đời nguời được chia ra làm nhiều giai đoạn:  sơ sinh, trể thơ, vị thành niên, trường thành, và già yếu. Độ dài của các giai đoạn nầy thay đổi theo văn hoá và theo từng thời đại.  So với các loài động vật linh trưởng lhác, con người lớn nhanh khác thường trong giai đoạn vị thành niên, lúc nầy kích thước cơ thể tăng trưởng 25%, trong lúc tinh tinh chĩ tăng trưởng 14% cùng thời kỳ.

 

Có nhiều khác nhau về tuổi thọ trên thế giới.  Những quốc gia mở mang thường có tuổi thọ trung bình là 40 tuổi (cao nhất là tại Monaco, 45.1 tuổi).  Các nước đang phát triển có tuổi thọ trung bình từ 15-20 tuổi.  Tuổi thọ dự kiến lúc mới sinh tại Hong Kong là 84.8 năm đối với phái nam và 78.9 năm đối với phái nữ trong khi đó tại Swaziland ở Đông Nam Phi Châu chĩ có 31.1 năm cho cả hai phái, chính vì bệnh AiDS.  Trong khi tại Âu châu, 20% dân số có thể sống đến 60 tuổi hoặc hơn thì tại Phi Châu tỷ lệ đó là 1/20.  Số người sống được trăm tuổi trên thế giới được Liên Hiệp  Quốc ước tính là 210,000 vào năm 2002.  Nhít nhất có một người là Jeanne Calment được biết đã sống được 122 tuổi.  Những con số cao hơn thế có nghe nói đến nhưng không được kiểm chứng.  Toàn thế giới, tỷ lệ đàn ông đối với đàn bà tuổi 60 là 81/100; và với lứa tuổi cao hơn tỷ lệ nầy 53/100.

 

Loài người là chủng loại duy nhất chứng kiến hiện tượng triệt sản (menopause) sớm nơi người đàn bà trong giai đoạn sau của đời mình.  Hiện tượng nầy được tin là phát xuất từ giả thuyết “Bà Nội” (Grandmother Hypothesis), theo đó quả có lợi cho chính người mẹ nếu tránh đi những rủi ro vì sinh sản ở tuổi già và đổi lấy những lợi điểm khác trong việc chăm sóc tốt hơn những con cái hiện có.

 

Những câu hỏi triết học như khi nào tư cách pháp nhân con người bắt đầu và liệu tư cách pháp nhân đó có tiếp tục sau khi chết hay không là đế tài tranh cải sôi nổi.  Ý thức về cái chết của chính mình khiến đa số loài người bàng hoàng lo sợ, khác với sự ý thức tức thì về một mối đe dọa.  Nhửng nghi lễ mai táng là đặc điểm của xã hội loài người, thường đi kèm theo niềm tin vào hậu kiếp hay bất tữ.

 

3.3  Chế độ ăn uống

 

Hàng trăm ngàn năm trước chủng loại Homo Sapiens đả sữ dụng (và ngay một số bộ lạc hãy còn lệ thuộc vào) săn bắn và hái quả như là phương thức chủ yếu để thu góp thực phẩm, bằng cách kết hợp những nguồn thực phẩm không di động như rau trái, hạt, củ, nấm, ấu trùng, và nghêu sò với các dã thú.  Loài người được tin là đả sữ dụng lửa để nấu chín thực phẩm trước khi ăn kể từ thời kỳ tách biệt với chủng loại Homo erectus. 

 

Con người thuộc loại ăn tạp (omnivorous), có thể ăn cả cây trái lẩn thịt cá.  Vì phảI thay đổi theo những nguồn thức ăn có sẳn trong môi trường sống và cũng thay đổi theo những tập tục và tôn giáo, con người đã chấp nhận nhiều hình thức ẩm thực, từ hoàn toàn chay trái sang chủ yếu thịt cá. Trong một vài trường hợp, những hạn chế về ăn uống có thể đưa đến bệnh suy dinh dưởng;  tuy nhiên, những dân cư ổn định đã thích nghi được với nhiều biểu mẫu ẩm thực qua quá trình chuyên biệt hóa về di truyền và qui ước văn hoá để sữ dụng những thực phẩm dinh dưởng quân bình.  Chế độ ăn uống được phản ảnh trội nét trong văn hoá con người, và dẩn đến sự phát triển khoa học thực phẩm.

 

Nói chung, con người có thể sống từ 2-8 tuần mà không cần thức ăn, tuỳ vào lượng mở trong cơ thể.  Không uống nước trong 3-4 ngày thì sẽ chết.  Nạn thiếu thực phẩm là một vấn đề nghiêm trọng.  Có khoảng 300,000 người chết đói mỗi năm.  Trẻ con thiếu ăn cũng thường xảy ra và là một trong những yếu tố gia tăng bệnh tật trên thế giới.  Tuy nhiên, sự phân phối thực phẩm toàn cầu không đồng đều, và nạn béo phì trong một số nước tăng lên theo một nhịp độ bất thường, đưa đến những rối loạn về sức khỏe và gia tăng tỷ lệ tữ vong tại một số nước phát triển và đang phát triển.  Các Trung Tâm Kiểm Dịch Hoa Kỳ (CDC) cho biết có 32% thành niên Mỹ trên tuổi 20 mắc bệnh béo phì; 65% hoặc bị béo phì hoặc quá nặng cân.  Bệnh béo phì là do calories hấp thụ nhiều hơn calories tiêu thụ.  Nhiều người cho rằng nạn lên cân quá đà là hậu quả tổng hợp của ăn uống quá mức và thiếu thể dục.

 

Ít nhất 10,000 năm trước, con người đã phát triển nông nghiệp, và đã biến đổi đáng kể những loại thực phẩm dành cho người.  Sự kiện đó đã giúp dân số tăng nhanh, các thành phố phát triển.  Cũng chính vì mật độ dân số tăng mà những bệnh truyền nhiểm cũng lan ra rộng hơn.  Các loại thực phẩm được dùng và phương thức chế biến chúng đã thay đổi rộng lớn theo thới gian, không gian, và văn hóa. 

 

Đông Yên