Nhớ Rừng
Kiều Mỹ Duyên
Buổi
sang ngày 16 tháng 5 năm 1973, một buổi lễ kỷ niệm 8 năm thành lập Sư Đoàn 18
Bộ Binh được tổ chức trọng thể dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Trần Văn Minh,
Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III. Các đơn vị kết nghĩa, các vị Mạnh Thường
Quân của Sư Đoàn 18, các đại diện của các binh chủng Hải, Lục, Không Quân, các
đại diện của ngoại giao đoàn…đến tham dự rất đông đảo.
Sau
8 năm trưởng thành trong khói lửa, Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã lập được nhiều chiến
công lẫy lừng. Tính đến ngày hôm nay, Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã được 4 lần tuyên
dương công trạng trước Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mang dây biểu chương màu
Quân Công Bội Tinh. Đặc biệt hai năm gần đây, Sư Đoàn 18 đã tạo thêm được nhiều
chiến tích đáng kể và được thêm 3 lần tuyên dương công trạng nữa.
Trong
dịp này, Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III, Trung Tướng Trần Văn Minh trả lời
các câu hỏi của báo chí về vụ tiền đồn Tống Lê Chân đang bị địch quân vây hãm
như sau:
- Tống Lê Chân là một tiền đồn khó chiếm được trước ngày
ngưng bắn. Việt Cộng lợi dụng sau ngày ngưng chiến đã trắng trợn tấn công căn
cứ này. Ta có nhiều biện pháp để giải tỏa Tống Lê Chân, như tiếp tế bằng thả
dù, nhưng lương thực ở đây đã dự trữ đủ ăn 3 tháng. Việt Cộng mong cắt đường
tiếp tế của ta, ta chỉ phản ứng tự vệ, không vi phạm hiệp định ngưng bắn. Sức
pháo của Việt Cộng đã giảm hai phần ba. Mình thả bom chung quanh để tiêu diệt
pháo của địch và giải tỏa lần lần. Tóm lại, Tống Lê Chân bây giờ không có gì
trầm trọng lắm.
Tướng
Minh cũng cho biết, đến hôm nay chưa thấy triệu chứng gì để nói rằng Cộng Quân
sẽ đánh lớn ở Quân Khu III trong mùa mưa này.
Tống Lê
Chân là điểm sôi động nhất sau ngày ký kết hiệp ước ngưng bắn. Căn cứ này đang
bị bao vây bởi một trung đoàn Cộng Quân. Địch pháo vào như mưa, ngày này tiếp
ngày khác. Gia đình binh sĩ trú đóng ở Tống Lê Chân đã được di tản ra khỏi vùng
lửa đạn. Một số được đưa về trại gia binh Phan Hạnh. Một số được đưa về làng cô
nhi Long Thành. Những người vợ, những người mẹ vừa hãnh diện với sự chiến đấu
của chồng, của con mình tại tiền đồn Tống Lê Chân, nhưng đồng thời họ cũng phập
phồng lo sợ từng giây, từng phút cho sự an nguy của những người than yêu nhất
đời mình đang tử thủ tại một tiền đồn xa xôi hẻo lánh, ngày đêm chịu từng cơn
mưa pháo long trời, từng đợt tấn công lỡ đất của địch quân. Trấn đóng tiền đồn
Tống Lê Chân là Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng, đa số binh sĩ của tiểu
đoàn này là người Thượng.
Khi
chúng tôi đến trại Phan Hạnh, trong hội trường đã đầy những gia đình binh sĩ từ
Tống Lê Chân di tản về, áo quần còn lem luốc bụi đường. Trẻ con đông hơn người
lớn. Những em còn bé được các bà mẹ đai sau lưng, các bà ngồi bẹp trên nền nhà
nói chuyện với nhau, nét mặt người nào cũng có vẻ âu sầu. Tôi chợt thấy một
người đàn bà trẻ đứng dựa tường khóc rưng rức một mình. Người đàn bà có nước da
thật trắng, nổi bật trong bộ bà ba đen, tóc đen mướt xõa dài. Người thiếu phụ
này có dáng dấp của một nữ sinh viên vừa rời ghế nhà trường. Tôi đến bên cạnh
chị hỏi thăm, chị cắn môi cho khỏi khóc nữa và tâm sự:
-
Ba Má tôi bị kẹt ở Bình
Thạnh, Bình Long rồi không biết sống chết ra sao.
Chị là
vợ của Hạ Sĩ Nguyễn Văn Nhơn đang đóng ở Tống Lê Chân. Chị nói tiếp:
-
Tôi còn bốn đứa em ở đó,
không đứa nào chạy thoát. Việt Cộng giữ lại hơn một năm rồi mà không có tin tức
gì. Bây giờ tôi ở đây một mình với đứa con nhỏ 4 tuổi, không có thân nhân nào
hết.
Chị Nhơn vừa khóc vừa kể, hai mắt chị đỏ hoe:
-
Chồng tôi đang đánh nhau ở
Tống Lê Chân, tôi không nỡ bỏ anh mà đi, nhưng bị pháo quá, chồng tôi bảo tôi
bồng con đi cho anh an tâm chiến đấu. Tất cả gia đình binh sĩ đều phải đi. Ngày
đầu lên một chiếc C130, ngày sau có một chiếc Chinook đến chở tiếp. Hô đi là
lên máy bay đi liền, chỉ kịp bồng con và mang theo mấy bộ quần áo.
Chị Út, vợ của Thượng Sĩ Mai Văn Út thấy đồng tình, đồng
cảnh, góp chuyện:
-
Ba Má chồng tôi cũng vậy,
bị kẹt hết rồi. Việt Cộng nó giữ lại, không cho ai đi hết. Tôi dọ hỏi hoài mà
không được tin tức nào cả.
Một bà
khác than:
-
Về đây khổ quá cô ơi. Thứ
gì cũng phải mua. Không có điện, buổi tối phải thắp đèn cầy hoặc đèn dầu. Nước
đi gánh từng đôi mà phải trả tiền cho chủ giếng nữa, 40 đồng một phi. Nếu nước
chuyền đến nhà thì 70 đồng một phi. Tôi ở núi rừng quen rồi, muốn dung bao
nhiêu nước cứ ra suối, đâu có tốn đồng nào, về đây thứ gì cũng tốn.
Các bà tụ lại từng nhóm nhỏ, tâm sự với nhau về mỗi hoàn
cảnh riêng của gia đình, hỏi thăm nhau về những thắc mắc trong cuộc sống tạm
hôm nay. Những người đàn bà Thượng không nói được tiếng Việt ngồi với nhau
thành một nhóm, họ ít nói, nét mặt người nào cũng có một vẻ buồn sâu kín. Họ
lạc lõng giữa đám đông trong hội trường.
Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng có trại gia binh ở
ngay trong căn cứ Tống Lê Chân. Khi căn cứ này bị pháo kích dữ dội, Thiếu Tá
Tiểu Đoàn Trưởng phải cho di tản các gia đình binh sĩ đi nơi khác để cho an hem
binh sĩ rảnh tay và yên tâm mà chiến đấu với quân thù.
Các gia đình ở Tống Lê Chân được đưa về ở nhờ trong trại
gia binh Phan Hạnh của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Trại Phan Hạnh có điện nước,
nhưng không đủ cho những gia đình mới đến. Trại Phan Hạnh ở trên một ngọn đồi
cao, nên vấn đề dẫn nước lên thật là một việc rất khó khăn. Nếu không đào giếng
trong trại, thì nước sẽ rất khan hiếm.
Trong đám mấy bà đang đứng góp chuyện với nhau, tôi chợt
thấy một em bé đứng cạnh đó lắng tai nghe người lớn nói chuyện. Em đứng một
mình, có vẻ bơ vơ giữa đám đông. Tôi đến bên em hỏi thăm:
-
Em nói được tiếng Việt
không?
-
Dạ được, cháu là người
Việt.
Tôi thấy mến em ngay vì cách ăn nói lễ phép của em:
-
Em bao nhiêu tuổi rồi? Em
tên gì và ba má em ở đâu?
Đứa bé có đôi mắt thật to, nói chuyện rất chững chạc:
-
Cháu tên Lan, 13 tuổi. Ba
má cháu chết rồi. Ba cháu chết ở Tống Lê Chân. Cháu có 6 đứa em nhỏ, má cháu
dẫn các em cháu chạy trước, cháu chạy theo sau, rồi bị lạc. Sau nghe nói má
cháu bị pháo kích chết. Còn các em cháu bây giờ không biết ở đâu.
Tôi xoa nhẹ lên mái tóc em và muốn
nói với em một lời an ủi, nhưng rồi tôi không nói được một câu nào. Tôi nghĩ
khi tôi mở miệng nói ra một lời an ủi nào đó, thì không biết là em bé Lan này,
hay chính tôi, ai sẽ là người khóc trước. Tôi nhìn em, giữa đám người chạy loạn
đó, em thật quá nhỏ bé và tuổi đời của em còn quá sớm để phải gánh chịu một sự
bất hạnh lớn lao như thế.
-
Bây giờ em ở với ai?
-
Cô áo đen kia nuôi em.
Người đàn bà mặc áo đen mà em bé chỉ cho tôi là vợ của
Thượng Sĩ Danh Quang. Chồng chị vẫn đang chiến đấu ở Tống Lê Chân. Ngày đêm chị
van vái Trời Phật cho chồng chị được bình yên trước lằn tên, mũi đạn.
Những người đàn bà Thượng có vẻ buồn bã hơn, hình như họ
không hòa hợp được với khung cảnh ở đây. Một bà nói với tôi:
-
Chồng tôi chết trận rồi.
Hai đứa con, một đứa chết, còn một đứa này.
Bà
chỉ vào đứa con đang đai trước ngực. Hình như đứa nhỏ đang bệnh. Tôi đặt tay
lên trán em, thấy nóng hừng hực. Tôi hỏi:
-
Sao chị không đưa cháu đi
bác sĩ?
-
Nó không đau gì, vì nó nhớ
rừng đó. Chúng tôi ở đây bệnh quá.
Những
người Thượng ở đây, qua câu chuyện, ai cũng nhắc đến rừng xanh. Họ mới xa rừng
mấy ngày mà đã thấy nhớ rừng đến bệnh rồi. Rừng xanh gắn liền với cuộc sống của
họ. Biệt Động Quân Biên Phòng là hậu thân của Lực Lượng Đặc Biệt. Đa số người
Thượng thích vào Lực Lượng Đặc Biệt, vì vào lực lượng này, họ được sống tại quê
cha đất tổ của họ, được sống với rừng xanh, với thiên nhiên và với đồng bào của
họ.
Phu
nhân của Trung Tướng Trần Văn Trung cùng quý vị phu nhân, là những Mạnh Thường
Quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, bắt đầu phát quà cho các gia đình binh sĩ từ Tống
Lê Chân về đây tạm cư. Mỗi gia đình được một phần quà gồm có một ngàn đồng tiền
mặt và chiếu, soong, nồi, chén bát…Phu nhân của Trung Tướng Trần Văn Trung nói:
-
Bao giờ Việt Cộng còn ý
định xâm lăng miền Nam, các anh chiến sĩ tử thủ Tống Lê Chân còn hăng say chiến
đấu, là chúng tôi còn chia xẻ niềm kiêu hãnh và lo âu với các chị em.
Sau khi
phát quà xong, các bà ngồi lại thảo luận để tìm cách giúp đỡ cho 80 gia đình
cũng từ Tống Lê Chân được đưa vế tạm trú tại làng cô nhi Long Thành. Những gia
đình người Thượng về đây, hầu hết đều cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Họ khó lòng hòa
hợp được với cuộc sống của những người ở thành phố. Họ nhớ mái nhà sàn, họ nhớ
miếng rẫy, họ nhớ rừng xanh, họ nhớ chồng, nhớ cha, nhớ con của họ đang ngày
đêm chiến đấu ở Tống Lê Chân. Họ mong sớm được trở về. Chúng ta chia xẻ với họ
những tâm sự đó, và mong có thể mang đến cho họ những nụ cười.
Đó là
những mong muốn đơn giản mà phu nhân của Trung Tướng Trần Văn trung bày tỏ và
đang cố gắng thực hiện. Từ lâu nay, bà vẫn âm thầm nhưng rất tích cực trong các
công tác xã hội và từ thiện. Một người có tâm hồn đẹp như phương danh của mình:
Nguyễn Hoài Nam. Nghe nói, ngày xưa bà cũng là một trong những người đẹp của
đất Thần Kinh.