Mơ Chút Ánh Mặt Trời
Kiều Mỹ Duyên
Tôi đứng bên giường bệnh của
Trung Tá Dương ở trại sĩ quan cao cấp tại tổng y viện Cộng Hòa. Hôm nay trông
ông đã khỏe hơn. Trung Tá Dương có hứa với tôi lúc nào khỏe, ông sẽ kể cho tôi
nghe một niềm mơ ước của ông, một ước mơ thật nhỏ, gần như vô nghĩa và đã hơn
nửa đời người, chưa bao giờ ông nghĩ có lúc mình lại ước mơ một điều như vậy.
Trung Tá Dương châm một điếu Bastos Quân Tiếp Vụ, rồi bằng một giọng rất linh
động, ông kể lại cho tôi nghe những ngày khốn khổ đã qua.
Lúc 3 giờ 30 sáng hôm đó, tôi ra
lệnh cho Chi Đoàn 3/1 Thiết Kỵ di chuyển về phía Nam của Lộc Ninh. Còn tôi thì
vẫn nằm tại ngã ba Bố Đức. Khoảng 4 giờ sáng Chi Đoàn 3/1 còn cách Lộc Ninh
chừng 2 cây số, đến cua Chùm Bao thì bị mìn. Hai thiết giáp bị hư. Địch mới
chôn mìn hồi đêm. Trời vừa sáng thì thêm một chiếc M41 bị Việt Cộng bắn ngay
trên bãi mìn. Cùng lúc đó, tôi được lệnh của Tướng Hưng phải về tiếp viện cho
Lộc Ninh gấp. Tôi lên xe để cố gắng thúc chi đoàn cố gắng vượt qua chỗ đó.
Tôi ngồi trên thiết quân vận để
đốc chiến và định đi theo về hướng Chi Đoàn 3. Di chuyển được 2 cây số, tôi
nghi thế nào cũng bị phục kích, nên ra lệnh đi vòng vào rừng cao su về phía
Tây. Khi còn cách sau lưng Chi Đoàn 3 chừng một cây số rưỡi, tôi thấy đằng
trước nhiều bóng người lố nhố, chưa biết là địch hay bạn. Tôi lấy ống nhòm để
quan sát thì Việt Cộng núp trong rừng, một bên hông của đoàn xe, bắn một trái
vào ngay xe tôi làm tài xế bị thương nặng, xe bốc cháy ngay. Tôi vừa nhảy ra
khỏi xe , chúng bồi thêm một phát nữa bay nắp pháo tháp. Hai xe đằng sau tiến
tới, vừa dập lửa vừa dàn ra bắn yểm trợ. Việt Cộng không dám xông ra. Chiếc
thiết quân vận sau khi dập tắt lửa rồi vẫn xử dụng được. Tôi trở lại xe điều
động chi đoàn phía Bắc kéo về. Lúc đó trên mặt tôi đã bị những mảnh đạn nhỏ
ghim vào.
Trung Tá Dương ngừng lại một
lát, đưa tay sờ lên má, tưởng như những mảnh đạn còn ghim trên mặt. Ông lại
châm thêm một điếu thuốc Basto nữa.
Chúng tôi được lệnh tấn công để
chiếm đồi Lộc Tấn. Lúc đó pháo binh ở Lộc Ninh đã hết yểm trợ cho chúng tôi
rồi. Mấy cây 105 quỵ hết vì pháo của địch. Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân đã bỏ
căn cứ Alpha. Chúng tôi tấn công và chiếm được hai phần ba ngọn đồi. Địch vẫn
bám chặt. Chúng rất đông, trùng trùng, điệp điệp. Lúc đó tôi thấy đóng quân ban
đêm trong rừng cao su không lợi, nhưng không thể nào theo Quốc Lộ 13 mà về Lộc
Ninh được. Nhìn tình hình, tôi biết mình đã bị vây. Sau này mới biết các đơn vị của địch lúc đó gồm
Công Trường 5, Công Trường 7, Công Trường 9, một trung đoàn pháo và một trung đoàn
thiết giáp.
Xe tăng của chúng không dám
đương đầu với chúng tôi, chỉ dàn ra ở phía Tây Nam Lộc Ninh. Việt Cộng sợ mang
chiến xa đương đầu sẽ bị bênh mình có Không Quân yểm trợ tiêu diệt. Cho nên
địch chỉ dùng bộ binh chận thiết giáo của mình ở phía Bắc, không cho về cứu Lộc
Ninh.
Bởi vậy, khi chiếm xong hơn phân
nửa ngọn đồi, tôi thấy không thể đóng quân ở đây được, nên cho lệnh rút về ngã
ba Bố Đức. Chúng tôi còn 4 khẩu 105 ly, sau khi bắn hết đạn, tôi xin lệnh phá
hủy rồi đi bọc về hướng Đông, định đến đêm sẽ băng qua Quốc Lộ 13 để tiến về xã
Lộc Thiên.
Chiều hôm trước, Đại Úy Chi Đoàn
Trưởng bị thương ở mặt, tôi chỉ định Đại Úy Mai Đình Thành làm Chi Đoàn Trưởng.
Chi Đoàn Phó lại tử thương, Trung Úy Chu Văn Tần thay thế. Chi Đoàn của Đại Úy
Thành băng qua Quốc Lộ 13, chiếm một ngọn đồi nhìn xuống xã Lộc Thiện, nhưng
sau đó bị Cộng quân chận lại. Địch quân tràn ngập các ngọn đồi và vây chặt một
chi đoàn thiết giáp vào giữa.
Tôi hướng dẫn Bộ Chỉ Huy Thiết
Đoàn đi theo tôi về hướng Tây Nam, qua các hàng phòng thủ, địch bắn vào xe tôi
nhiều phát nhưng không trúng. Anh xạ thủ của tôi bị một băng AK hớt đứt 3 ngón
tay. Mấy xe đi đằng sau bắt đầu bị rối loạn hàng ngũ và sau đó thì bị thất tán.
Tôi tiến về hướng Tây Nam, ở đây thấy rất nhiều hầm hố phòng thủ, hình như là
hậu tuyến của địch quân. Tôi thấy dưới chân một ngọn đồi, có một tên đang nằm
võng và một tên khác đang nấu nước. Hai tên này có lẽ là bệnh binh, thấy chúng
tôi xuất hiện bất ngờ, mặt mày tái xanh, vừa chạy vừa té bò càng.
Lúc đó tôi chỉ còn hai xe. Quan
sát các đồi chung quanh, tôi thấy địch đã bố trí xong cả rồi, nên tôi phải đi
vòng qua hướng Tây, sát với khu rừng Cấm. Gọi là rừng Cấm vì Việt Cộng cấm dân
đến đây đốn cây làm củi. Tôi liên lạc với L19, xác định vị trí của tôi, để nhờ
dẫn dùm mấy chi đoàn thất tán về vị trí tôi, nhưng không có xe nào ra khỏi vòng
vây được.
Tôi định tìm hướng chạy vòng qua
Lộc Thiện để hướng về phía Nam của sân bay Lộc Ninh, nhưng đi được một đoạn thì
đã thấy Cộng quân giăng hàng đón chúng tôi và vây lại. Tôi cho lệnh phá máy
truyền tin, lấy gạo sấy mang theo, tập trung lại còn 24 người cả Biệt Động Quân
và Thiết Giáp. Chúng tôi bỏ xe, hướng vào rừng tìm đường mà tránh sự truy kích
của quân địch. Chúng tôi lẩn tránh trong rừng một ngày, một đêm. Đến 6 giờ sáng
ngày 7 tháng 4 thì bị lọt vào lực lượng trừ bị của Cộng quân cách Lộc Ninh
chừng 3 cây số, và bị chúng bắt giữ.
Trung Tá Dương kể chuyện rất
mạch lạc, như những sự việc vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Thỉnh thoảng ông dừng
lại, châm điếu thuốc rồi kể tiếp.
Chúng tôi bị trói hai tay đằng
sau lưng bằng dây kẽm. Chúng thẩm vấn qua loa rồi bảo tội gọi Đại Tá Vĩnh ra
đầu hàng. Một lát sau chúng bảo với tôi là Đại Tá Vĩnh cũng đã bị bắt rồi.
Chúng mở dây kẽm cột tay cho tôi, hai cổ tay đã sưng húp. Chúng bắt tôi cởi giày
ra, tôi nói không có giày, tôi không đi chân trần được. Chúng cho tôi mang giày
nhưng tháo giây buộc giày ra. Như vậy lại càng khó đi hơn nữa.
Đi mất một ngày và một đêm,
chúng đưa tôi đến một trại giam gần Quốc Lộ 7, cách Snoul chừng 10 cây số về
phía Tây Nam. Đến trại này, tôi bị cùm hai chân vào một cái cùm gỗ. Cùm làm
bằng hai tấm gỗ dày, mỗi tấm có khoét hai hình bán nguyệt. Tôi và môt anh lính
Biệt Động Quân khánh thành bộ cùm của trại đầu tiên. Anh lính này nói với tôi,
chúng nghi em là sĩ quan nên nhốt chung với Trung Tá.
Mỗi ngày chúng lôi tôi lên một
cái chòi nhỏ để thẩm vấn về tình hình Lộc Ninh. Bị thẩm vấn suốt ngày từ sáng
tới chiều, nên tối đến, khi trở về trại, xỏ chân vào cùm xong, nằm ngã xuống
đất là ngủ thiếp đi, mặc cho muỗi rừng và kiến cắn đầy cả mặt mũi, chân tay.
Hai hôm sau có một toán khác bị
dẫn đến nhốt chung. Sáng ngày mồng 10, chúng đưa Đại Úy Trúc, Tiểu Đoàn Phó
Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng và tôi ra Quốc Lộ 7, ngay Mimot, và đưa
vào doanh trại của Bộ tư Lệnh Dã Chiến của Công Trường 5. Chúng lại thẩm về
tình hình quân sự và bắt tôi đi trong rừng cao su để quay phim.
Ngày hôm sau thì Đại Tá Vĩnh
được giải tới. Bốn hôm sau nữa, chúng đưa Đại Tá Vĩnh, Đại Úy Trúc và tôi lên
xe jeep, xe của Trung Cộng, giải về trại giam phía tây Bắc Minot. Chúng dùng
dây xích, xích cổ ba chúng tôi lại với nhau.
Bị xích ở trong trại này gần một
tuần lễ, chúng bắt đầu tuyên truyền và dụ hàng. Dụ chúng tôi vào Phong Trào
Liên Minh Dân Chủ của Luật Sư Trịnh Đình Thảo thì sẽ cho làm thành viên và đời
sống sẽ khá hơn. Chúng tôi chẳng có ai đáp ứng, nên sau đó, cứ chừng 2, 3 giờ sáng, chúng lại
kêu lên thẩm vấn. Hai ba tên cán bộ thay nhau thẩm vấn một người. Thẩm vấn xong
lại dụ hàng, nhưng không có kết quả.
Chúng
thay đổi phương pháp tuyên truyền. Mỗi ngày, vào buổi trưa, chúng bắt tất cả
anh em chúng tôi tập trung lại ngồi nghe đài của Việt Cộng khoảng 45 phút,
Chúng tôi ngồi nghe mà đầu óc thì cứ nghĩ chuyện đâu đâu, nên chúng bắt nghe
hôm nay, ngày mai phải tóm tắt lại. Nhưng rồi chẳng ai nhớ gì để mà trả bài.
Một
cánh tay của Trung Tá Dương không cử động theo ý muốn được vì đang chuyền
Dextrose. Khi kể lại những ngày tháng bị đày ải trong lao tù, đôi mày của ông
nhíu lại vì vẫn còn xúc động.
Đến tháng 7 chúng mới cho mỗi
người một cái võng.Tối ngày 26 tháng 7, tới giờ đi ngủ, tôi lấy ống tre, chổi
quét nhà và mấy khúc gỗ bỏ vào võng, đắp chăn lại, để khi lính gác đi kiểm
soát, chúng tưởng tôi đang ngủ. Ngụy trang xong, tôi bò ra khỏi trại và tìm
đường vượt ngục. Mới đi vòng vòng được chừng 400 mét, thì đụng đầu với một toán
đi họp hội đâu về và bị chúng bắt lại, xích chân nhốt thêm 3 tháng 2 ngày nữa.
Tôi phải nhiều lần xác nhận việc
vượt ngục là chỉ một mình tôi làm, không có liên hệ đến người khác. Nhưng sau
đó, chúng giải Đại Tá Vĩnh và Trung Tá Nguyễn Văn Thông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 53 Pháo Binh, mới đến sau này đi qua làng khác. Còn lại một mình tôi, tôi
nghĩ thầm, chắc không bao giờ có ngày về nữa.
Những ngày bị xích và nằm một
mình trên võng trong trại giam giữa rừng núi âm u, bệnh sốt rét hành hạ từng
cơn. Những lần thức giấc giữa đêm khuya, chung quanh chỉ toàn một màu đen tối
và những âm thanh ghê rợn của núi rừng, làm cho tôi cảm thấy mình đang sống
trong một địa ngục. Tôi sợ nhất là những chiều mưa rừng. Rừng núi đã âm u, lạnh
lẽo, khi một cơn mưa đổ xuống, ánh sáng chỉ còn là nhữn vệt mờ phản chiếu trên
màu xanh của lá rừng, gây nên một cảm giác như chung quanh mình cái gì cũng
xanh sao, lạnh lẽo và có vẻ ma quái…
Suốt một thời gian dài sống
trong cảnh âm u của rừng núi như thế, bỗng nhiên tôi thấy ánh mặt trời thật là
quý. Tôi ao ước buổi sáng được đứng giữa cánh đồng trống, nhìn mặt trời đang
lên, sưởi ấm mình trong ánh nắng ban mai. Và đó là một ước mơ nhỏ của một người
tù như tôi.
Tháng 8 năm 1972, những người bị
bắt được hướng dẫn làm phiếu tù binh, lăn tay và chụp hình. Chúng tôi đoán chắc
có biến chuyển gì đây. Ai cũng hy vọng vì mọi người đã kiệt quệ vì bệnh sốt rét
rừng, phù thủng và ghẻ lở. Nhưng những hy vọng của chúng tôi dần dần trôi đi
theo ngày tháng.
Mãi đến chiều ngày 20 tháng 3
năm 1973, trại giam ra lệnh cho chúng tôi gom đồ đạc cá nhân, tập trung lại để
di chuyển đi nơi khác, trại biên phòng số 27. Sau đó lại dẫn về gần Mimot, phía
Bắc của Thiện Ngôn, cách Tây Ninh khoảng 8 cây số, trong một khu rừng tre, có làm
sẵn một cái chòi để tạm trú.
Trong số 35 người, Đại Tá Vĩnh bị bệnh nặng, đi không nổi, cũng chẳng ăn cơm
cháo gì được. Đến lúc này, Việt Cộng mới cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ
được trao trả vào ngày 23 tháng 3. Ngày 21 lại di chuyển sang một trạm khác.
Ngày 22, chúng tôi được xe của chúng chở về Thiện Ngôn lúc 2 giờ đêm. Vì di
chuyển lui tới cực khổ, đến hôm đó Đại Tá Vĩnh bị mê man. Chúng sợ ông chết,
nên cho nằm trên băng ca.
Đến Thiện Ngôn, toán chúng tôi
được dẫn vào một cái chòi mới cất lên cách đường cái chừng 50 mét. Lúc thì
chúng bảo các anh được trao trả ngày 24, lúc thì nói là ngày 25. Chúng tôi nôn
nóng, đếm từng giây từng phút, cầu mong cho mọi chuyện suông sẻ, đừng có gì
trục trặc để sớm về với anh em đồng đội, với gia đình, vợ con.
Nhưng sáng ngày 23, chúng bảo
các anh chuẩn bị để đến sân bay Thiện Ngôn. Khi đến sân bay, chúng bắt toán của
tôi đi chầm chậm để dàn cảnh quay phim. Băng ca của Đại Tá Vĩnh được đưa lên
trực thăng trước. Còn tôi với Trung Tá Thông thì chúng bắt đứng ở dưới để chụp
hình. Bỗng có ai kéo mạnh tay tôi và đẩy lên trực thăng. Anh Thông cũng được
đẩy lên và trực thăng cất cánh đi ngay. Tôi chưa biết ai đã đẩy hai anh em tôi
lên máy bay như thể cướp người vậy, khi quay lại mới thấy Đại Tá Đắc đã ngồi
sẵn đó, vừa thấy chúng tôi là ông cho bốc lên ngay.
Trực thăng hạ xuống Tây Ninh
chừng 10 phút. Đại Tá Tỉnh Trưởng hướng dẫn các phái đoàn xã hội và tôn giáo
của tình Tây Ninh ra đón mừng tại phi trường. Vì Đại Tá Vĩnh vẫn mê man, nên
chúng tôi không rời trực thăng. Sau đó chúng tôi được đưa thằng vào Tổng Y Viện
Cộng Hòa để điều trị.
Kết thúc câu chuyện, Trung Tá
Dương thở dài một cái như muốn chấm dứt sự xúc động. Đôi mày của ông cũng hết
nhíu lại để hồi tưởng. Tôi hỏi:
-
Bây giờ Trung Tá có những
ước vọng gì cho đời sống cá nhân của mình không?
Trung Tá Dương lắc đầu:
- Thật tôi chẳng có ước vọng gì.
Bây giờ vẫn muốn tiếp tục ở trong binh chủng Thiết Giáp. Tôi có vợ với 4 con.
Con lớn nhất 15 tuổi, nhỏ nhất là 5 tuổi. Gia đình tôi hiện vẫn ở trong trại
gia binh ở Long Xuyên. Suốt những năm trong quân ngũ, tôi đã phục vụ khắp bốn
vùng chiến thuật, tôi vẫn ao ước gom được chút tiền còn mua cái nhà nhỏ ở Gài
Gòn cho vợ con về đây sinh sống, nhưng đã bao năm nay, tôi chưa lo gì được cho
vợ con tôi hết.
Mấy hôm sau tôi trở lại thăm Đại
Tá Vĩnh, Trung Tá Thông và Trung Tá Dương để tặng báo thì các vị này đang sửa
soạn để chuyển qua trại An Dưỡng ở Gia Định. Riêng Trung Tá Dương lại trở bệnh
nặng, nên vẫn nằm ở trại cũ và tiếp tục chuyền Destrose.