Chiều dừng quân bên biên giới
Kiều Mỹ Duyên
Buổi sáng ở thàng phố Huế không
ồn ào, náo nhiệt như Sài gòn. Thời tiết đầu mùa hè vẫn còn dịu mát. Mặc cho
tình hình quân sự ngày càng căng thẳng và Huế bị pháo kích dữ dội, những lớp hè
của bậc trung học đệ nhất cấp đã bắt đầu khai giảng. Trung Úy Hưng ngồi uống cà
phê ở một quán cà phê trong thành nội. Cà phê ở đây nổi tiếng nhất Huế. Không
biết có phải tại cà phê ngon hay vì mấy chị em cô chủ quán xinh đẹp, và quán
lại tọa lạc trong một khung cảnh trữ tình của Đại Nội, vừa trang nghiêm vừa thơ
mộng. Hưng không biết đơn vị của mình sẽ dừng quân ở đây bao lâu, cứ với tình
hình này, chắc không thể lâu được. Thây
kệ, được ngày nào hay ngày đó. Đã bao năm chinh chiến miệt mài! Con người, bất
kể tuổi tác, rồi cũng có một lúc nào đó, thấy thèm một sự yên nghĩ. Có những
buổi chiều hành quân qua những buôn Thượng, nhìn làn khói trắng từ trong bếp
của mấy căn nhà sàn bay lên gữa bầu trời lúc hòag hôn, Hưng chợt muốn được dừng
chân ở đây, cưới một cô sơn nữ nào đó, sống bình yên, phẳng lặng dưới mái nhà
sàn, rồI sinh con đẻ cái.
Sinh trưởng tại miền Nam và lớn
lên nơi đó, đây là lần đầu tiên Hưng theo đơn vị ra hành quân tận miền Trung.
Tháng 5 năm 1972, sau khi thành phố Quảng Trị lọt vào tay Cộng Quân, đơn vị của
Hưng, Pháo Đội F thuộc Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến được lệnh rút
về Huế dưỡng quân để chờ ngày phản công quân địch. Pháo Đội của Hưng đóng trong
cửa Thượng Tứ và mới về đây được vài hôm.
Tôi tình cờ gặp lại Trung
Úy Hưng trong quán cà phê này. Anh đang
ngồi uống cà phê với mấy người sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, có lẽ cùng đơn vị.
Khi đi ngang qua bàn, tôi dừng lại chào hỏi:
-
Chào Trung Úy Hưng. Cũng
lâu lắm rồi mới gặp lại anh.
Trung Úy Hưng quay lại, thấy
tôim anh rất ngạc nhiên:
-
Chị Duyên, chị mạnh khỏe?
Tôi chào mấy ngườibạn của anh và
đáp:
-
Cám ơn, vẫn bình thường.
Anh ra đây lâu chưa?
-
Lâu rồi, từ Quảng Trị rút
về. Đơn vị đang dưỡng quân gần cửa Thượng Tứ, chờ tái chiếm Quảng Trị.
-
Nhớ lần gặp anh hành quân ở
Cao Miên, mới đó mà đã gần hai năm.
Hưng gật đầu tán đồng:
-
Phải, mới đó mà đã gần hai
năm rồi!
Thời gian qua thật nhanh. Hồi đó
Hưng còn là Thiếu Úy, sĩ quan tiền sát của tiểu đoàn. Tôi gặp anh đang dừng
quân bên trấn Neak Leung trong một cuộc hành quân quy mô cấp quân đoàn của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa qua biên giới và đánh sâu vào trong lãnh thổ Cao Miên để
tiêu diệt những căn cứ hậu cần của Cộng Quân và đón cả trăm ngàn đồng bào về
nước để tránh khỏi sự tàn sát của người Miên, trả thù vì Việt Cộng ngang nhiên
xâm chiếm lãnh thổ của họ.
Tháng 11 năm 1969, Bắc Việt đưa
khoảng 40 ngàn quân xâm nhập vào đồn trú trong lãnh thổ Cao Miên, dọc theo biên
giới. Đầu năm 1970, lực lượng này đã tăng lên đến 60 ngàn người. Theo hãng
thông tấn UPI, quân Bắc Việt đang di chuyển những số lượng quan trọng gạo và
các loại thực phẩm khác xuyên qua lãnh thổ Cao Miên. Ngày 8 tháng 3, khoảng
1500 dân của tỉnh Sray Rieng, một tỉnh sát biên giới miền Nam Việt Nam đã biểu
tình phản đối kịch liệt quân Bắc Việt ngang nhiên chiếm đóng nhiều nơi trên
lãnh thổ của họ. Cộng quân nổ súng bắn vào đoàn người biểu tình. Dân Miên giận
cá chém thớt, họ phát động phong trào tàn sát ngườI Việt đang sinh sống trên xứ
này.
Ngày 12 tháng 4 năm 1970, Tướng
Lon Nol sau khi đảo chánh lật đổ Thái Tử Sihanouk, đã tuyên cáo một chế độ Cộng
Hòa đồng thời phát động chiến dịch chống quân đội Bắc Việt chiếm đóng lãnh thổ
và chống luôn cả mọi người Việt ở Cao Miên. Hiện nay có khoảng 600 ngàn người
Việt sinh sống trên đất Cao Miên đang bị đe dọa, vì Việt Cộng càng mở rộng các
cuộc tấn công vào các đơn vị của Cao Miên thì người Miên lại càng căm thù Việt
kiều bấy nhiêu. Hàng ngàn Việt kiều đã bị quân đội Miên tập trung lại để canh
phòng và tra hỏi. Một số tình nghi có liên hệ với Bắc Việt bị bắt giữ. Chính
quyền Nam Vang đã ban bố tình trạng giới nghiêm riêng cho Việt kiều và bắt làm
căn cước đặc biệt.
Ngày 10 tháng 4, hãng Reuter
loan tin: “Khoảng 100 ngườI Việt gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con đã bị thiệt
mạng và khoảng 200 ngườI khác bị thương giữa hai lằn đạn giao tranh ác liệt của
quân Bắc Việt và quân Cao Miên”.
Ngày 16 tháng 4, cảnh sát Miên
ập vào một ngôi làng gọi là Xóm Biên bắt hết đàn ông con trai Việt từ 14 tuổi
trở lên đưa đến một nơi nào không ai biết. Nhưng những ngày sau đó, một vài
phóng viên ngoại quốc và một vài vị tu sĩ Công Giáo đã nhìn thấy cả ngàn Việt
kiều bị lùa lên tàu chở đi. Hai hôm sau, người ta đếm được khoảng 500 xác bập
bềnh trôi dọc theo dòng sông. Những người này bị giết và thả xuống sông từ
nhiều nơi khác nhau, đa số đều bị trói hai tay.
Ngày 17 tháng 4, tại thị xã
Takeo, lính Miên đã 4 lần xả súng bắn vào trại tập trung Việt kiều làm cho hơn
100 người thiệt mạng. Hằng đêm, tàu Hải Quân Cao Miên chở từng loạt người Việt
đến cù lao rồi xả súng bắn bỏ. Những người còn lạI sống trong tình trạng kinh
hoàng, họ tìm cách trốn tránh, tìm đường trở về nước và một số bỏ theo Việt
Cộng. Chính quyền Nam Vang không hề lưu ý đến sự can thiệp của chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa. Giữa hai nước chưa có sự bang giao chính thức. Trong lúc đó, vùng
tam biên bắt đầu dậy sóng. Quân Bắc Việt từ Lào kéo dốc xuống Cao Miên, và miền
Nam cũng đã dàn quân dọc biên giới.
Ngày 29 tháng 4 năm 1970, một
lực lượng đặc nhiệm gồm hơn 100 chiến xa và khoảng 15 ngàn quân của Việt Nam
Cộng Hòa vượt biên giới tiến sâu vào trong đất Cao Miên. Lực lượng này đã kiểm
soát được hai thị trấn Chipou và Prasaut mà quân Bắc Việt đánh chiếm hồi đầu
tháng 4 vừa qua.
Lực lượng đặc nhiệm từ ba mặt
tiến vào. Cánh quân thứ nhất không gặp một sự kháng cự nào. Cánh quân thứ hai
phải chạm súng dữ dội khi tiến chiếm một dãy những căn cứ tiếp liệu, trung tâm
huấn luyện của địch. Cánh quân thứ ba xuất phát từ Kiến Tường và đánh qua biên
giới.
Cánh quân chiếm Chipou và
Prasaut là một tiểu đoàn Biệt Kích người Việt gốc Miên, di chuyển theo 40 chiến
xa M48 và được một tiểu đoàn Bộ Binh yểm trợ. Đơn vị Bộ Binh này đã tập trung
người Việt trong vùng lại và hộ tống họ đến nơi đóng quân của bộ chỉ huy trung
đoàn. Đồng bào được phát lương thực và chờ phương tiện đưa về nước.
Tư Lệnh Hành Quân, Trung Tướng
Đổ Cao Trí đã tuyên bố với các phóng viên tại Svey Tiep, một nơi cách biên giới
Việt-Miên 24 cây số:
-
Mục đích cuộc hành quân là
tiêu diệt Việt Cộng, phá hủy các cơ sở tiếp liệu để vô hiệu hóa hoạt động của
chúng trong một thời gian dài.
Về địa lý, lãnh thổ của Cao Miên
có một giải đất nằm lọt vào sâu trong lãnh thổ của miền Nam và có hình dáng
giống mỏ của con chim vẹt, nên vùng này có tên là vùng Mỏ Vẹt. Cái mỏ vẹt chỉ
cách Hòn Ngọc Viễn Đông chưa đến 60 cây số, cho nên nếu không kiểm soát được Mỏ
Vẹt, thì Hòn Ngọc Viễn Đông có thể bị “mổ’ bất cứ lúc nào.
Ngày 3 tháng 5, một cánh quân
gồm Bộ Binh, Biệt Động Quân và Thiết Kỵ đã ác chiến dữ dội khi tiến vào mật khu
Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Ba Thu là một trong những mật khu lớn Và quan trọng
của Cộng Quân. Chiếm mật khu này, quân ta tịch thu được nhiều kho vũ khí, đạn
dược của địch tích trữ bấy lâu nay.
Sát với Mỏ Vẹt là vùng Lưỡi Câu,
vì hình dạng giải đất này giống hình lưỡi câu. Người ta nghi ngờ đây là nơi trú
đóng bản doanh của Trung Ương Cục Miền Nam hay Cục R. Một lực lượng đặc nhiệm
thứ hai gồm khoảng 9 ngàn quân với sự yểm trợ của Không Quân, Pháo Binh và
Thiết Giáp đã tiến vào càn quét vùng Lưỡi Câu để lung bắt Cục R.
Tin tình báo cho rằng, bản doanh
của Cục R cũng là bản doanh của Công Trường 7, và Trung Đoàn 66 là một trung
đoàn chính quy tinh nhuệ nhất của Bắc Việt có nhiệm vụ bảo vệ Cục R. Nhưng khi
lực lượng đặc nhiệm này tiến vào, có những dấu hiệu cho thấy địch quân đã rút
ra khỏi vùng trước đó một, hai ngày. Cũng có giả thuyết cho rằng, bản doanh của
Cục R có những hệ thống địa đạo dẫn vào những khu rừng rậm nằm sâu trong đất
Miên.
Ngày 10 tháng 5, một lực lượng
thủy bộ gồm có 140 chiếc tàu của Hải Quân đủ loại, 300 chiến xa của Thiết Giáp
và 5 trung đoàn Pháo Binh yểm trợ cho 8 ngàn Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Binh
tiến vào đất Miên dọc theo sông Cửu Long. Lực lượng này được chia ra làm hai
mũi tiến công: một cánh trên bộ và một cánh trên sông. Cuộc hành quân có tên là
Hành Quân Cửu Long và do Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Thiếu Tướng Ngô Dzu chỉ huy.
Hơn 300 chiến xa đã mở đầu cho
cuộc hành quân xuất phát từ Kiến Phong ào ạt tràn qua biên giới. Khi băng qua
những cánh đồng đất khô, đoàn chiến xa đã tạo một màn bụi mờ rộng lớn che phủ
cả một vùng. Một lực lượng Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ xuống
Neak Leung và đánh vào thị trấn này.
Buổi sáng ngày 12 tháng 5 năm
1970, tôi đi từ Sài Gòn về Cần Thơ, rồi từ Cần Thơ đến Châu Đốc bằng đường bộ.
Buổi tối tôi ở lại Châu Đốc tại nhà của một người bạn gái học cùng trường. Sáng
hôm sau, ra bãi đáp ở tòa hành chánh Châu Đốc thật sớm để theo trực thăng qua
Neak Leung.
Neak Leung là một thị trấn nhỏ
nằm gần biên giới Việt Miên. Hai dãy phố nằm dọc theo con đường chính chạy
xuyên qua thị trấn và bên cạnh một dòng sông nhỏ, hai bên bờ sông trồng toàn
tây thốt nốt. Khi tôi đến, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến của Việt Nam Cộng Hòa
đã đẩy lui Việt Cộng và hoàn toàn kiểm soát thị trấn này. Nhưng Neak Leung đã
bỏ ngỏ kể từ ngày Việt Cộng tràn vào xâm chiếm. Dân chúng, đa số là người Việt
và người Hoa, đã trốn đi nơi khác để tị nạn. Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến trấn
giữ ở đây đóng rải rác khắp thị trấn. Mỗi toán nhỏ vài người trong một căn nhà
hay phố trống. Có toàn đóng trong các vườn cây. Một nhóm Thủy Quân Lục Chiến
đang đá banh giữa đường phố một cách thoải mái. Một vài căn nhà kế đó, có mấy
gia đình người Miên vẫn liều ở lại trong thị trấn, họ nằm đu đứ trên võng căng
trước nhà và thản nhiên nhìn mấy người lính Việt Nam đá banh.
Trong lúc đó, các cấp chỉ huy
của đơn vị này đang nóng lòng chờ cánh quân của Cao Miên đến bắt tay để bàn kế
hoạch hành quân sắp tới, nhưng họ tiến quá chậm và rời rạc làm mất nhiều thời
giờ.
Một Thiếu Úy đến chào và ngỏ ý
nhờ tôi mang dùm thư và một món quà nhỏ về Sài Gòn cho gia đình của anh. Tôi
nhìn bảng tên và hỏi:
-
Thiếu Úy tên Hùng hay tên Hưng?
-
Tôi tên Hưng, Nguyễn Phục
Hưng.
-
Tôi sẽ đưa đến tận nhà cho
anh. Anh thấy tình hình ở đây như thế nào?
-
Chưa thấy đụng nặng, chỉ có
pháo kích thôi.
-
Anh gặp đồng bào mình
không?
-
Không thấy ai nhiều. Một số
đã bỏ trốn từ ngày bị người Miên cáp duồn, một số bị bắt vào các trại tập trung
hoặc đem đi nơi nào chẳng ai biết.
-
Khi quân mình đến đây,
người Miên họ có thái độ như thế nào?
-
Người Miên đang thù Việt
Cộng, mình vào đánh Việt Cộng, thì họ có cảm tình với mình hơn.
Buổi trưa, anh em Thủy Quân Lục
Chiến mời tôi ăn cơm gạo sấy. Sau bữa cơm, tôi rời Neak Leung đến Kompong
Trach.Ngang qua một con sông, cây cầu đã bị Việt Cộng giựt sập khi rút lui cho
khỏi bị truy kích. Một đon vị Công Binh Chiến Đấu đang nối lại cầu. Xe phải
dừng để chờ. Một vị sĩ quan Công Binh nói với tôi:
-
Có ông xếp lớn chỉ huy dưới
sông.
Tôi ngạc nhiên, xuống xe đến gần
xem, nhưng nhìn mãi không thấy xếp lớn nào cả. Một lúc sau, tôi mới thấy Tướng
Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh, mặc một bộ đồ đen, đang đứng dưới
sông, phụ nâng một cây đà lên cùng với anh em Công Binh làm cầu. Tướng Chức tóc
hớt thật cao, nắng gió Cao Miên làm cho da ông đen sạm. Tôi biết ông từ hồi ông
còn là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 30 Công Binh Chiến Đấu mà chiều hôm nay suýt
chút nữa không nhìn ra ông. Nắng và gió của Cao Miên nhuộm màu da người rất
nhanh, tôi mới qua đây chưa chưa đầy một ngày, nhìn xuống hai cánh tay, thấy đã
đổi màu rõ rệt.
Tiếng gió thổi, tiếng búa đập,
tiếng người lao xao…khiến nơi đây ồn ào như một công trường. Tôi đứng trên bờ
la lớn:
-
Chào Thiếu Tướng.
Tướng Chức nhìn lên, thấy tôi
cũng có mặt ở đây, ông có vẻ ngạc nhiên:
-
Chào cô Kiều Mỹ Duyên.
Tôi cũng ngạc nhiên và cảm phục
khi thấy một vị tướng đang xắn tay áo, lội xuống dưới sông làm việc với những
người lính của mình giữa chiến trường.
Từ Kompong Trach, tôi trở lại
Neak Leung để phỏng vấn một số chiến sĩ trong lực lượng Hải Quân của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng hành quân này gồm khoảng 30 chiến hạm đã ngược
dòng sông Cửu Long, dừng lại ở bến Neak Leung trước khi tiến lên Nam Vang. Từ
Neak Leung, một chiếc tuần giang đủng đỉnh đi trước mở đường, dẫn đầu là chiến
hạm Vũng Tàu, và lực lượng Hải Quân này tiến vào thủ đô Nam Vang trước sự hâm
mộ của hàng ngàn dân Miên đứng đầy bên bến tàu. Trong lúc đó, hàng ngàn người Việt
đang ở trong các trại tập trung của Miên, vô cùng xúc động và hãnh diện khi
nghe tin này. Họ mất mác quá nhiều: tài sản, sinh mạng, cả nơi sinh sống của
họ. Nhưng nay đã được chút an ủi, được bù đắp bởi tình đồng bào và vòng tay che
chở của quê hương.
Khi Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh
Châu, chỉ huy trưởng cuộc hành quân, từ chiến hạm Vũng Tàu bước lên bờ, một
phái đoàn của chánh quyền Nam Vang đã chờ sẵn để đón tiếp. Ngày hôm sau, đoàn
tàu tách ra một toán đi Kompong Cham, cách Nam Vang chừng 120 cây số, là một
tỉnh có nhiều người Việt sinh sống, nằm ở thượng lưu sông Cửu Long. Đoàn tàu
này gồm một chiến hạm 400 tấn, 10 giang đỉnh yểm trợ, và 10 giang vận hạm để
chở đồng bào về. Trên đường đi, đoàn tàu phải giao chiến với các lực lượng Việt
Cộng hai bên bờ, cho nên không thể trở lại Nam Vang cùng ngày được. Đoàn tàu
đón được 4 ngàn người từ Kompong Cham và ở Nam Vang, 5 ngàn người sẵn sàng để
hồi hương. Hàng ngàn người Việt đã sinh sống lập nghiệp ở đây, cũng có người
sinh ra và lớn lên, xem mảnh đất này như một quê hương thứ hai, nhưng buổii
sáng hôm nay, họ bỏ lại nhà cửa, cơ sở làm ăn từ trong những trại tập trung ở
Nam Vang, lúc sáng sớm tinh sương, đã khăn gói, bồng bế nhau sắp hang trên bờ
sông chờ xuống tàu. Những người lính Hải Quân đứng thành hang dài để chuyển dùm
đồ đạc, trẻ con, giúp những người tàn phế, già cả xuống tàu và phát thực phẩm.
Khoảng xế trưa, Phó Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đáp trực thăng ngay
ở bến tàu và bước xuống chiến hạm Vũng Tàu thăm hỏi đồng bào tị nạn.
Đúng 1 giờ chiều, đoàn tàu rời
bến Nam Vang, mang theo hơn 9 ngàn đồng bào trở về quê nhà. Lực lượng Hải Quân
đã hoàn thành cuộc hành quân ngược dòng Cửu Long để đón đồng bào về nước đợt
đầu như một cuộc biểu dương thật rầm rộ, hào hùng và đẹp mắt chưa từng thấy từ
trước đến nay trên dòng Cửu Long Giang.
Và tiếp theo, còn nhiều đợt khác
sẽ được thực hiện để đón khoản 100 ngàn đồng bào rải rác trên đất Miên về nước.
Hiện nay, chính quyền Nam Vang đang còn giam giữ khoảng 30 ngàn người Việt sống
một cách thiếu thốn, khổ cực và bị ngược đãi trong các trại tập trung. Hồng
Thập Tự quốc tế phải cảnh cáo chích quyền Nam Vang là coi chừng một trận dịch
sẽ lan tràn. Như một lời phúc đáp, những người đi lại trên phố Nam Vang đều
thấy những tấm bích chương dán đầy đường, với nội dung bằng hai thứ tiếng, Pháp
và Miên: “Việt Cộng còn đáng sợ hơn cả bệnh dịch nữa”.
Kiều Mỹ Duyên