Bên Dòng Sông Dabla
Kiều Mỹ Duyên
Buổi chiều đầu tiên ở Kontum,
tôi đến bên bờ sông Dabla thăm một đoàn người vừa mới về từ quận Dakto đang tạm
dừng chân tại đây. Sau khi căn cứ Tân Cảnh bị Cộng quân tràn ngập, dakto được
lệnh di tản chiến thuật. Trung Tá Lò Văn Bảo, Quận Trưởng Dakto, gọi máy về
tiểu khu nói ông sẽ tử chiến chứ không chịu lùi bước. Nhưng dù sao lệnh vẫn là
lệnh. Trung Tá Bảo và Bộ Tham Mưu của ông là người di tản sau cùng vì còn phải
phá hủy những thứ gì không thể để lọt vào tay địch.
Rút ra khỏi quận Dakto, Trung Tá
bảo chỉ huy một đoàn khoản 500 người gồm có sĩ quan, binh sĩ, gia đình binh sĩ
và thường dân. Một đoàn nhắm vào rừng mở đường máu mà về Kontum. Đoàn người
vượt rừng, vượt suối, vừa dìu dắt nhau
vừa chống cự với địch quân đang truy đuổi. Họ đi suốt 4 ngày và 3 đêm liên tiếp
trong rừng với bao nhiêu hiểm nguy chờ chực.
Khi tôi đến, Trung Tá Bảo đang
họp Bộ Tham Mưu của ông dưới những gốc phượng bên dòng sông Dabla. Trung Úy
Nhiên, một bên tai bị băng vì trúng miểng B40, kể với tôi:
-
Ngay ngày đầu, cố vấn Mỹ cho máy bay đến bốc Trung Tá Bảo, nhưng ông nhất định
không bỏ anh em. Ngày hôm sau cố vấn Mỹ lại cho them trực thăng đến bốc hết cả
Bộ Tham Mưu, nhưng Trung Tá Bảo nhất định không bỏ đồng bào lại.
Trung Tá Lò Văn Bảo gốc người Thái ở Bắc Việt, xuất than từ khóa 8
Võ Bị Đà Lạt. Dáng người cao lớn và đôi mắt rất sắc, biểu lộ một ý chí mãnh
liệt. Khi đoàn người di tản vào rừng, chiến xa của Cộng quân rượt theo truy
kích, nhưng không vượt qua một con suối sâu được nên phải dừng lại. Trung Tá
Bảo di tản khỏi căn cứ mà dẫn theo được một đoàn 500 người gồm cả đàn bà con
nít và bảo vệ cho họ được an toàn quả là một điều đáng khâm phục. Các phóng
viên chiến trường có mặt tại Kontum, khi đánh tín điện về, đều gọi Trung Tá Bảo
là người hung của Dakto.
Trung Úy Nhiên kể tiếp:
- Ban
đêm, con nít bị vắt cắn khóc quá, thành ra chúng tôi bị lộ mục tiêu, nên lại bị
Cộng quân đuổi theo sát. Có một đoạn, chúng tôi chạy xuyên qua mật khu của
địch, may mà không bị phát giác. Tối đến, đoàn người phải dừng chân cho đàn bà,
trẻ con nghỉ lấy sức. Sĩ quan và binh sĩ rải ra thành một vòng tròn chung quang
dân để bảo vệ cho họ. Dừng lại ở đâu là phải đào hố ngay tại đó. Nếu không đào
hố để nấp đạn thì chắc chết khá nhiều. Cũng may gặp rừng rậm, cây chằng chịt,
nên ngăn cản đạn cho chúng tôi được phần nào.
Một ông Trung Úy khác tiếp lời:
- Chúng
tôi liên lạc với Tiểu Khu, và mỗi lần nghe tiếng máy bay trên trời là mắt người
nào cũng sang lên một niềm hy vọng. Nhưng rồi máy bay chưa đủ để bốc chúng tôi.
Ban đêm, có một lần, nằm ngủ ngay trên dây điện thoại của địch thả trong rừng,
nhưng vẫn để nguyên, vì sợ cắt ngay thì lộ mục tiêu. Sáng hôm sau khi tiếp tục
lên đường thì mới cắt dây.
Ngày đầu, chúng tôi thiếu nước,
phải nhịn khát một ngày, không dám ra suối vì sợ Việt Cộng đợi sẳn. May quá,
chiều hôm đó trời mưa, chúng tôi hứng nước mưa từ các lá cây mà uống. Tuy có
nước uống, nhưng lại bị ướt mèm. Chỉ tội cho đàn bà và trẻ con. Trẻ con chịu
lạnh không được khóc cả buổi.
Đi xuyên rừng như vậy cho đến
ngày thứ tư thì đàn bà và trẻ con bắt đầu kiệt lực. Trong giây phút tuyệt vọng
đó thì chúng tôi bỗng nghe tiếng máy bay. Từ dưới đất nhìn xuyên qua những tàng
cây trên cao, chúng tôi hơi thất vọng vì thấy chỉ có một chiếc máy bay thôi.
Nhưng liền sau đó, những chiếc khác nối đuôi nhau bay đến. Chiếc bay dẫn đầu
định đáp xuống liền bị Cộng quân bắn cháy. May mà phi hành đoàn xuống đất được
an toàn. Trung Úy Nhiên chạy ra dẫn phi hành đoàn vào rừng, anh bị trúng miểng
của một trái B40 ở bên tai. Phi hành đoàn gồm 4 người Mỹ, tất cả đều bị thương,
nhưng không nặng lắm. Những chiếc còn lại thấy tình hình không thể đáp xuống
được bèn nghiêng mình bay trở về. làn mưa đạn của Cộng quân còn bắn theo dữ
dội. Chúng tôi lại mong ngóng từng giây, từng phút.
Trung Tá Đổ có mặt tại đó, bây
giờ mới góp chuyện:
- Từ
lúc bắt được vô tuyến, biết được các cậu bị vây khổn trong rừng, tôi tự hứa bất
cứ giá nào cũng phải bốc cho được các cậu về an toàn. Mỗi lần đi họp mà nghe
chưa có đủ máy bay để tiếp cứu là tôi thất vọng. Suốt mấy ngày mấy đêm tôi
không ăn, không ngủ với các cậu.
Trung Tá Đổ đã suýt chết một lần
vì lo cứu đoàn người này. Ngày nào ông cũng bay trên trời để liên lạc và trấn
an an hem ở bên dưới. Một hôm máy bay trúng đạn rớt gần khu vực của Việt Cộng,
dưới làn mưa đạn của địch, Trung Tá Đổ và phi hành đoàn chạy thoát được vào một
đồn của Nghĩa Quân gần đó.
Ngày sau, được yểm trợ đầy đủ,
19 chiếc trực thăng đáp xuống một bãi trống gần nơi đoàn người đang chờ đợi.
Đàn bà, trẻ con được bốc đi trước. Trung Tá Bảo là người về sau cùng. Về
Kontum, ông và các sĩ quan cùng binh sĩ của ông tạm đóng quân bên bờ song
Dabla.
Sáng hôm sau tôi lại gặp Trung
Tá Bảo ở các trại tạm cư, ông đi thăm đồng bào ở Dakto chạy về. Một sĩ quan đi
với Trung Tá Bảo nói với tôi:
- Bây giờ chúng tôi không có các
gì liên lạc được với gia đình, nhờ cô
viết dùm lên báo là tất cả sĩ quan của Chi Khu Dakto đã về tới Kontum đầy đủ và
đang tiếp tục chiến đấu. Như vậy gia đình của chúng tôi được yên lòng.
Tôi hứa sẽ làm điều đó. Hy vọng
gia đình các anh sẽ đọc được những dòng này trên nhật báo Hòa Bình trong những
số tới. Đến hôm nay, không còn phương cách nào để liên lạc giữa Kontum và
Pleiku, ngoại trừ đường dây điện thoại quân sự, đường dây duy nhất phải để ưu
tiên cho việc hành quân.
Buổi chiều tôi ra bãi đáp trực
thăng để về Pleiku. Chưa kịp lên máy bay thì bị một trận pháo như mưa. Quân
nhân vào hầm sẳn sang chiến đấu. Những người đang chờ máy bay ngồi đông nghẹt
cả phi trường chạy tán loạn như một đàn ong vỡ tổ. Có người chạy bỏ quên cả con
dại đang nằm bên mấy xách hành lý. Có người trúng đạn đổ ruột vẫn còn cố lết
trên mặt đất.
Một quả pháo trúng ngay ngôi nhà
thờ mà đêm qua tôi xin các sơ tạm trú. Một quả khác trúng ngay cô nhi viện, nơi
mới chiều hôm qua, cũng vào giờ này, tôi đến thăm đồng bào bị nạn ở đó. Bởi
vậy, tôi nghĩ mọi người đều có số. Tôi nhớ một người lính đã nói:”Nếu viên đạn
đã khắc tên tôi, viên đạn sẽ tìm đến tôi”. Thời gian gần đây, tôi thường xuyên
có mặt từ chiến trường này qua chiến trường khác, biết bao lần thoát chết trong
đường tơ kẽ tóc, cho nên tôi vẫn có niềm tin như vậy.
Kiều Mỹ Duyên.