Nguyên Sa Trần Bích Lan
- Đông Yên

[** Bài viết nầy được đăng tải trên Diễn Đàn pongour.com cách đây khoảng 9 năm nhân kỷ niệm mười năm ngày nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998) qua đời, và được đăng tải lại trên Nguyệt San ĐỈNH SÓNG số 1, tháng 7/2011.]
Tuổi thọ một người có thể tăng lên và cũng có thể giảm xuống khi đọc một áng thơ nào đó của một thi hào nào đó. Nguyên Sa là một trong những thi hào đó. Nguyên Sa, một tài năng đa dạng và phong phú với sức sáng tạo vô song, trổi lên trong văn học như một hội tụ tuyệt vời của những loài ánh sáng hiếm hoi trong tư duy và sáng tác. Ông đến với văn học Việt Nam như một hoàng tử hào hoa rạng rỡ, mang theo những giá trị khó thỏa hiệp với bất kỳ dạng mô tả hay định nghĩa nào mà các nhà phê bình văn học có thể xử dụng để minh họa cái thiên tài thần thánh đó. Người ta yêu Nguyên Sa từ nhiều chiều không gian thăm thẳm, những chiều không gian của một trí thức thượng đẳng, hiện thân sức lấp lánh rạng ngời trên những cầu vồng ngũ sắc, những âm thanh vượt tần số đi đến từ những thiên hà xa xăm nhất của vũ trụ.
Có lần Nguyên Sa cho biết ông không thích nói đến triết học trong thơ. Nguyên Sa rất thực thà khiêm tốn khi phát biểu điều nầy. Vâng, Nguyên Sa không dựng thơ bằng triết; ông dựng thơ trên triết. Và điều nầy có lẽ chính Nguyên Sa cũng không ý thức được. Đôi khi con người cũng bị lừa dối bởi chính mình, bởi những bảo vật hiếm hoi vô giá có được trong hành trang trí thức của mình. Không có triết thì làm sao Nguyên Sa có thể gọi được những tinh tú về trong ánh mắt người tình và hình dung được Ngân Hà nước lụt?
Có phải tên người là âm thanh vô vọng
Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
Thượng đế đưa sao mang gửi về khóe mắt?
- (Đẹp)
Không có triết thì làm sao có được những liên kết thần kỳ như trong những câu thơ dưới đây?
Người dáng bước bơ vơ của bầu trời hải đảo
Tóc bồng bềnh trên nếp trán ưu tư
- (Đẹp)
Không có triết thì làm sao có thể đi vào chiều thứ tư của những viên hồng ngọc ngời sáng trong bài thơ Đẹp được trích bên dưới.
Người về đâu giữa đàn khuya dìu dặt
Hơi thở thiên thần trong tóc ẩm hương xưa
Người đi về trời nắng hay mưa
Sao để sương gió trầm tư thêu thùa má ướt
Mắt dịu ngọt đúc từ rừng ngọc bích
Hay linh hồn trăm phiến đá chân tu
Sao người về mang trọn một mùa thu
Với mây trắng lênh đênh của những chiều nguyệt tận
- (Đẹp)
Ánh sáng trong thơ Nguyên Sa không phải là loài ánh sáng vật lý xác định trong quang phổ. Màu sắc trong thơ Nguyên Sa không phải là màu sắc thiên nhiên xanh đỏ tím vàng xám bạc. Âm thanh trong thơ Nguyên Sa không phải là thứ âm thanh được mô tả bằng tần số vật lý. Những chuyển động trong thơ Nguyên Sa không phải là những chuyển động xác định bằng phương tốc hay cường độ toán học. Thơ Nguyên Sa không có những thứ đó; nhưng thơ ông có tất cả những thành tố lung linh cao vời đến từ những vũ trụ trừu tượng xa xăm không thuộc không gian ba chiều của con người. Đó là một không gian huyền ảo mênh mông đủ lạnh để diễn tả cái buốt giá của tâm hồn, đủ nóng để truyền đạt nỗi ấm áp trong tình yêu và đủ sức tàn phá để mang về giông bão.
Là gió trăm cây hay là cồn nước đọng
Người không cười mà hoa cỏ gói trong tay
Đường áo màu viền trắng cổ thơ ngây
Màu sắc thời gian người thu tròn giữa áo
Bóng nhỏ xa đi trên lá vàng cổ đạo
Bước chân chìm theo mỗi phím đàn khuya
Tay trần gian tôi đếm ngón so le
Đã có phút âu lo đường về dương thế
- (Đẹp)
Thời gian trong thơ Nguyên Sa không phải là thời gian vật lý và cũng chẳng phải thời gian tâm lý. Thời gian đó không mang sử tính và cũng không thể minh định bằng những cột mốc niên đại. Thời gian đó không phải là một thực thể đơn độc mà là một thành tố của một tổng hợp bao la trừu tượng, trong đó, ngoài thời gian, còn có không gian, vũ trụ của những tinh tú và thiên hà, con người với những dự phóng và hoài niệm, quê hương của những dòng sông, những thành phố mang những địa danh đã mất, những thiên đường còn rơi lại trên những nấm bia phai, những giông bão của những ngày cô đơn, những cơn mưa trên thành phố nhỏ không đèn.
Người về đâu mà lầu đài hoang phế
Mang dáng người trên mỗi nấm bia phai
Trăm vạn đường mây xê dịch chân trời
Theo tiếng nhặt khoan của từng nhịp bước
- (Đẹp)
...Có phải em về đêm nay
Trên con đường thời gian trắc trở
Để lòng anh đèn khuya cửa ngỏ
Ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh
- (Có phải em về đêm nay)
Nếu đó là mùa xuân, thì thời gian trong thơ Nguyên sa chính là những con suối trên đồng cỏ, là Cửu Long Giang chín lần cửa rộng.
Như sông Cửu Long về lòng biển cả
Vẫn tiếng sóng về nước chảy triền miên
Vẫn Cửu Long giang mở chín lần cửa rộng
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca
... (Bài hát Cửu Long)
Còn nếu đó là mùa thu hay mùa đông tàn tạ thì không gian và thời gian trong thơ Nguyên Sa chính là khung qui chiếu của những trầm tư thăm thẳm, trong đó điểm đến và điểm đi không còn phân ranh nữa, những hướng trình tâm hồn trải dài về mọi phía, điểm hội tụ, nếu có, chẳng qua chỉ là sự hiện hữu cô độc của nhà thơ trong thế giới âm u vàng vọt, tranh tối tranh sáng của những hoàng hôn xa lạ, những ban mai tải đầy sấm sét, những đêm khuya quờ quạng vây bủa bằng sợ hãi âu lo.
Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa
Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài
Nên có gửi cho ai vài giọng nói
Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi
Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc
Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao
Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét
Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào
Năm ngón tay có bốn mùa trái đất
Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân
- (Bây giờ)
Với Nguyên Sa, mùa hạ đến như một hạnh phúc ngắn ngủi vội vàng, chưa kịp hưởng đã phải nghĩ đến một ngày thu sắp tới. Sức nắng chan hòa ngày hạ biến đâu mất trong thơ và chỉ còn sắc vàng vương cuối hạ. Hạnh phúc rồi sẽ bay xa để nhường chỗ cho những hoài niệm thổn thức úa màu?
Em đến với ta trong mùa vừa Hạ
Hai tâm hồn một ánh nắng vàng vương
Trong nồng ấm ta yêu em vội quá
Cao tuyền đài ánh sáng của tình thương
Nắng đến với đôi ta vừa cuối Hạ
Ta bàng hoàng trong mắt em rạo rực
Nắng chưa về sao áng đỏ bay xa?
Thu sẽ đến, ôi tình em thổn thức
...
Khi đọc thơ Nguyên Sa chắc không ít người tự hỏi nhà thơ ngồi ở đâu để có thể viết ra những dòng thơ trân châu ngọc bích đó. Có thể đó chỉ là khung cửa sổ của một căn phòng nhỏ nhìn ra căn vườn nhỏ nhưng đầy tinh tú ban đêm và không bị phát tán bởi ánh đèn đường. Đó cũng có thể là khung trời mà Lamartine đã ngồi để viết bài thơ l’Isolement:
Souvent sur la montagne, à l’ombre du vieux chêne,
Au coucher du soleil, tristement je m’assieds
Và đó cũng có thể trên những đỉnh non cao như của Byron trong Manfred:
Ma joie était dans la solitude, pour respirer l’air difficile de la cime glacée des montagnes.
Bất luận ở đâu, vị trí dành cho Nguyên Sa trong văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung thuộc một lãnh địa độc tôn mà người đời phải tri ân và ngưỡng mộ. Một số địa danh có gía trị thần thánh như Sài-gòn, Hà Nội, đã có được may mắn lịch sử đi vào thơ Nguyên Sa trước năm 1975, như đi vào một bảo tàng viện thiêng liêng của những người Việt Nam xa xứ từ khi mất nước. Ngày nay, bên nầy bờ đại dương, khi đọc lại Áo Lụa Hà Đông, chẳng hạn, Sài gòn trở về với họ như một nấm bia phai thuộc một nền văn minh đã bị lịch sử xóa nhòa trong nước mắt. Còn chăng là nỗi ước mơ về vĩnh cửu được dắt díu theo với sự nghiệp thi ca bất diệt của nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan.
- Đông Yên