Letter from Earth - Dong Yen
Duy Xuyen, July 15, 2000
My Love,
As I’ve lost all concept of days and times, the day and the month I put on the top of this letter are the same as on your letter. Only the year 2000 is an estimate as it's likely we're about fifty years apart based on the year you put on your letter, 1952. I live in a never-ending twilight. My insight tells me that Earth entered the new millennium long ago. Thus it's likely I'm about fifty years older than you are! Luckily I'm still alive on Earth, at least in the sense that being alive means sharing immortality with you as you say in your letter.
The happiest day of my life was the day I received your letter. I’ve been waiting to hear from you for so long. I've read your letter word by word. I can feel your warm breath in the words; see the late summer yellow rice fields when we first dated; and smell the sweet aroma coming from the plumerias, the magnolias in the evening and the night-blooming jasmines. I was flooded with memories about those evenings when we were boating along the mulberry fields on the small tributary flowing from the Thu Bon River, the moonlight nights at the village hall submerged in fragrances coming from areca trees and grapefruits. Thank you for bringing me back to those beatific days.
Four years after your departure, the war came to an end. Our country was separated into two zones, the northern zone governed by the Communists, and the southern zone, starting from the 17th parallel, governed by the Republic of Vietnam. I then left with our son for Saigon, where I rejoined Binh, my brother, living in Trang Bang and Qui, one of your cousins, who got me a job at a drugstore on the Truong Minh Giang Street. Loc, our son, graduated from the Saigon University, Faculty of Science in 1966 and left home in 1967, exactly 17 years to the day after your departure. I haven't heard from him since. Neither have I from Bai, Oanh, and Dung.
(...)
|
Lá thư từ
Trái Đấtt - Đông Yên
(...) "Duy Xuyên, ngày 15 tháng 7 năm 2000
Anh yêu dấu,
Ngày và tháng mà em ghi trên đầu thư là lấy theo ngày và tháng trong thư của anh, vì bây giờ em dường như mất hết khái niệm về ngày tháng rồi. Chỉ có năm 2000 là em tự đoán ra dựa theo linh cảm, nghĩa là chúng ta có thể đang cách nhau khoảng sáu mươi năm so với năm 1952 mà anh ghi trong thư. Trong buổi hoàng hôn bất tận mà em đang sống, em linh cảm trái đất đã bước vào thiên kỷ mới, và có thể từ lâu rồi. Như thế em thực sự đã già hơn anh khoảng sáu mươi tuổi! Rất may là em đang còn sống trên trái đất nầy, ít nhất là sống theo nghĩa là không bao giờ chết như anh nói trong thư.
Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời em vì lần đầu nhận được tin anh sau gần sáu mươi năm. Em đã đọc lại từng chữ từng lời anh nói, tưởng tượng như nghe được hơi thở nồng ấm của anh ngày nào, tưởng tượng như thấy lại được những cánh đồng lúa ươm vàng cuối hạ khi hai chúng ta mới biết hẹn hò, với mùi hương hoa sứ, mùi ngọc lan trong chiều và mùi dạ lý trong đêm. Em nhớ đến những chiều hai đứa bơi thuyền dọc bãi dâu xanh trên nhánh sông con chảy về từ dòng sông cái Thu Bồn, nhớ những đêm trăng sáng trên đình làng thơm lừng mùi hoa bưởi, hoa cau... Cám ơn anh đã cho em được sống lại những chuỗi ngày thần tiên đó.
Sau khi anh đi được bốn năm thì chiến tranh kết thúc. Đất nước bị chia cắt làm đôi; từ vĩ tuyến mười bảy trở vào là chế độ Quốc Gia; bên Miền Bắc là chế độ cộng sản. Em và con đã vào Sài Gòn sinh sống, gặp lại được anh Bình của em ở Trảng Bàng, gặp lại được Quí, người em họ của anh. Nhờ Quí giới thiệu nên em kiếm được một chân bán thuốc tây ở một pharmacy trên đường Trương Minh Giảng. Lộc, con của chúng ta, tốt nghiệp đại học khoa học Sài gòn năm 1966 và ra đi vào năm 1967, đúng mười bảy năm sau khi anh ra đi. Từ đó đến nay em không có tin tức gì của nó cả. Tin tức về Bài, Oanh, và Dũng cũng không có.
Không bao lâu sau ngày Đình Chiến thì chiến tranh lại bắt đầu trở lại giữa một bên là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt và bên kia là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ. Tháng tư năm 1975, Mỹ thua bỏ chạy và Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Nhiều người Sài Gòn lên máy bay chạy ra nước ngoài trước ngày 30 tháng tư. Hàng triệu người khác đã bỏ xứ ra đi bằng đường biển, bỏ lại sự sản và cơ ngơi. Một lần nữa em lại tiếp tục sống với chế độ cộng sản như chúng ta đã từng sống với chúng trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Nhưng bây giờ thì tình trạng tồi tệ hơn nhiều vì đám thắng trận không ngần ngại để lộ nguyên hình bản năng chính trị hạ cấp của họ. Em còn nhớ có lần anh nói rằng con người càng mạnh thì càng ác. Đúng, bây giờ, một khi gồm thu giang sơn về một mối rồi thì họ mạnh lắm, do đó họ rất ác độc và quỉ quyệt, cái ác độc và quỉ quyệt của những đạo quân vô học, thiếu văn hóa, chẳng khác gì đám hung nô xâm lăng những kinh thành văn minh. Họ vơ vét Miền Nam rồi mang về Bắc trong khi vẫn luôn mồm rêu rao rằng Miền Nam là cặn bã của Đế Quốc Mỹ. Đạo quân chiếm đóng đã từng bước thay những nhà tư sản Miền Nam bằng giai cấp tư bản đỏ đầy ắp tiền của và tài sản trong nước và ngoài nước nhờ vào thế lực chính trị, bóc lột lao động, tham ô móc ngoặc và đánh cắp của công. Hố chênh lệch giữa giai cấp lãnh đạo giàu sụ và đa số dân nghèo ngày nay đã quá rộng và quá sâu. Bất công xã hội đã trở thành mãn tính.
Đây có thể là xu thế chung của nhân loại ngày nay trên trái đất vì các quốc gia độc tài bây giờ không còn bị ngăn chặn như trước kia khi mà Tây Phương còn mạnh. Âu Châu đã thực sự suy nhược về kinh tế, tài chánh, xã hội, và cả quân sự, chờ ngày phá sản. Đế quốc Anh đã tan rã. Kể từ sau Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ từng bước đi xuống và lâm vào cảnh nợ nần không thể thanh toán được nữa; chính sách cai trị từng bước đi vào chủ nghĩa độc tài mềm; guồng máy quan liêu càng lúc càng trở nên cồng kềnh, tốn kém, béo phì không thể chửa trị được nữa; khoảng một phần trăm thuộc các tập đoàn tài phiệt thì rất giàu có còn đa số còn lại, mặc dù hãy còn sung túc và hạnh phúc hơn nhiều so với đám dân đen trong các xã hội toàn trị, nhưng tựu trung cũng chỉ là những giai cấp ăn theo và bằng lòng tuân thủ sự cai trị của đám đầu sỏ đang nắm đầu dây xích. Các định chế chính trị và đại học Mỹ ngày nay mang đầy đủ sắc thái của một nền văn minh nô tì, làm thuê để trả nợ. Giấc mơ của những người lập quốc dường như đã vĩnh viễn đi theo họ, nhường chỗ cho một sản phẩm tư tưởng duy lợi thiển cận và thấp kém của đám con buôn tham lam vô độ. Với giai cấp nầy Hoa Kỳ không phải là quê hương của họ mà chỉ là vùng tạm cư để làm giàu, sau đó sẽ bỏ đi và để lại đủ mọi thứ rác rưởi và những nạn nhân mãn tính của họ. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì chủ nghĩa duy lợi cũng thế. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì nó cũng làm mờ trí khôn quốc gia của Mỹ. Điều được mệnh danh là quyền lợi quốc gia đã bôi đen thần tượng Hoa Kỳ và thu nhỏ vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Chủ nghĩa lái buôn tham lam phần lớn là nguyên nhân đưa đến sự khánh tận cận kề của một cựu siêu cường. Con đại bàng Mỹ đã gần như hạ cánh vì không gian ngày nay tỏ ra quá nhỏ đối với đôi cánh của nó. Chính giai cấp lái buôn khuyển nho nầy đã giết chết nền cộng hòa Miền Nam và đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm với đám thái thú mới mệnh danh là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau khi nhận ra không thể thắng được Chiến Tranh Việt Nam, Mỹ nghĩ cách bắt tay với Trung Quốc để làm giàu vì nhìn thấy cái thị trường béo bở của nước Tàu lạc hậu. Muốn được thế, Mỹ không những bỏ rơi Miền Nam mà còn âm thầm bán đứng Quần Đảo Hoàng Sa của chúng ta cho Tàu, dùng B52 không khích ồ ạt Miền Bắc để buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam quì gối mà ký vào những mật ước nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh. Từ đó Bắc Bộ Phủ đã chính thức là tập đoàn thái thú của Tàu. Năm 1979, khi đám thân Nga còn mạnh, Cộng Sản Việt Nam đã có lần nỗi loạn với quan thầy phương bắc đưa đến cuộc xâm lăng ngắn ngày của Tàu vào những năm đó; nhưng khi khối Liên Xô tan rã, đâu lại vào đấy và Tàu một lần nữa lại tròng cái xích bắc thuộc vào cổ Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau khi trải nghiệm hai cuộc chiến tranh liên tiếp, em mới thấy rằng anh đúng. Bọn tội đồ ngày nay có mặt khắp nơi và thế giới càng ngày càng có nhiều bạo chúa và nhiều hệ thống lừa đảo được luật pháp con người chính thức che chở. Nhân loại dường như không còn lùi lại được nữa nên cứ phải nhắm mắt đi về điểm hẹn với định mệnh. Tương tự như số phận của các vì sao, hành tinh chúng ta sắp đến ngày tận thế; nhưng em ngại rằng chính con người sẽ tự hủy diệt mình trước khi ngày tận thế đó xảy ra.
Em đang sống trong thế giới của loài cừu tạp sắc và không rõ mình đang mặc sắc lông gì và cũng không rõ ngày nào sẽ bị đưa vào lò sát sinh như nhiều con cừu đáng thương khác. Dù chúng không bị đưa vào lò sát sinh thì cuối cùng linh hồn của chúng cũng bị cướp đi trong thế giới âm u của những rào cản mênh mông vô hình.
Xã hội bây giờ chỉ có giai cấp bọn lừa áo đỏ và đám nô tì có bộ lông cừu vàng là sung sướng nhởn nha. Chúng và con cháu của chúng đang ngày đêm đục khoét xã hội để truy hoan và cung phụng đám tài phiệt bên ngoài.
Đó là các tập đoàn tội phạm được luật pháp bảo vệ và được sự đồng lõa của các hệ thống chính trị khuyển nho Phương Tây, những đế quốc đã và đang tan rã. Những đế quốc trong thời kỳ quá độ nầy đang biến văn minh nhân loại thành những nền văn minh nô tì, làm thuê trả nợ cho các hệ thống độc tài hung hãn nhưng giàu có trên trái đất trong khi miệng vẫn ba hoa hô hào giá trị và lý tưởng về tự do, dân chủ, và nhân quyền.
Về phương diện vật chất phần lớn nhân loại hiện chưa đủ nghèo để làm thành giai cấp vô sản, nhưng ngày đó không còn xa, vì hiện nay hố ngăn cách giữa giai cấp thống trị và bị trị đã quá rộng và quá sâu rồi. Nhưng dù chưa thực sự trở thành vô sản về mặt vật lý thì phần lớn xã hội loài cừu của chúng em đã thực sự vô sản về mặt tinh thần và tri thức rồi. Chính hiện tượng vong thân triệt để đó đã đưa em về lại quê hương để nhẹ bớt mùi hôi của xã hội loài cừu và bớt nhìn thấy những vũ điệu tế thần được trình diễn hằng ngày nhằm giúp loài cừu quên đi nguồn cội làm người của chúng, quên đi khát vọng và ngày mai, quên đi chính thận phận của chúng.
Khi thư nầy viết xong, em sẽ làm theo lời anh dặn, sẽ đi thuyền theo sông Thu Bồn và đi từ quê hương Duy Xuyên của chúng ta, ngược dòng lên thượng nguồn để đến Nông Sơn và sau đó là Hòn Kẽm Đá Dừng. Em sẽ lên sườn phía tây của đỉnh núi phía tây vào một ngày nắng ấm, lên cao được chừng nào hay chừng đó, đến khi không còn lên được nữa thì dừng lại. Bấy giờ em sẽ đem thư nầy ra đọc lớn lần cuối rồi đốt cho tro bay vào nắng và gió của Hòn Kẽm Đá Dừng.
Anh nhớ hồi âm em càng sớm càng tốt. Cách tốt nhất là về với em trong giấc ngủ. Có anh em sẽ sống lại những ngày thần tiên nắng ấm khi mới quen nhau. Có anh em sẽ quên đi chuỗi ngày cô đơn lạnh giá nầy và quên đi những hoài vọng khôn nguôi. Có anh em sẽ tiếp tục sống sót buổi hoàng hôn bất tận hiện thời dù sau đó không biết sẽ đi về đâu, làm gì và kết liễu ở đâu, thế nào…
Anh hãy cố đi tìm con mình anh nhá. Đương nhiên, không đi tìm theo nghĩa vật lý như tìm nhau trên trái đất nầy mà đi tìm trong những chiều không gian song song như anh đã đi tìm em và gặp được em hôm nay.
Mong anh và nhớ anh nhiều,
Trang (...) "Duy Xuyên, ngày 15 tháng 7 năm 2000
Anh yêu dấu,
Ngày và tháng mà em ghi trên đầu thư là lấy theo ngày và tháng trong thư của anh, vì bây giờ em dường như mất hết khái niệm về ngày tháng rồi. Chỉ có năm 2000 là em tự đoán ra dựa theo linh cảm, nghĩa là chúng ta có thể đang cách nhau khoảng sáu mươi năm so với năm 1952 mà anh ghi trong thư. Trong buổi hoàng hôn bất tận mà em đang sống, em linh cảm trái đất đã bước vào thiên kỷ mới, và có thể từ lâu rồi. Như thế em thực sự đã già hơn anh khoảng sáu mươi tuổi! Rất may là em đang còn sống trên trái đất nầy, ít nhất là sống theo nghĩa là không bao giờ chết như anh nói trong thư.
Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời em vì lần đầu nhận được tin anh sau gần sáu mươi năm. Em đã đọc lại từng chữ từng lời anh nói, tưởng tượng như nghe được hơi thở nồng ấm của anh ngày nào, tưởng tượng như thấy lại được những cánh đồng lúa ươm vàng cuối hạ khi hai chúng ta mới biết hẹn hò, với mùi hương hoa sứ, mùi ngọc lan trong chiều và mùi dạ lý trong đêm. Em nhớ đến những chiều hai đứa bơi thuyền dọc bãi dâu xanh trên nhánh sông con chảy về từ dòng sông cái Thu Bồn, nhớ những đêm trăng sáng trên đình làng thơm lừng mùi hoa bưởi, hoa cau... Cám ơn anh đã cho em được sống lại những chuỗi ngày thần tiên đó.
Sau khi anh đi được bốn năm thì chiến tranh kết thúc. Đất nước bị chia cắt làm đôi; từ vĩ tuyến mười bảy trở vào là chế độ Quốc Gia; bên Miền Bắc là chế độ cộng sản. Em và con đã vào Sài Gòn sinh sống, gặp lại được anh Bình của em ở Trảng Bàng, gặp lại được Quí, người em họ của anh. Nhờ Quí giới thiệu nên em kiếm được một chân bán thuốc tây ở một pharmacy trên đường Trương Minh Giảng. Lộc, con của chúng ta, tốt nghiệp đại học khoa học Sài gòn năm 1966 và ra đi vào năm 1967, đúng mười bảy năm sau khi anh ra đi. Từ đó đến nay em không có tin tức gì của nó cả. Tin tức về Bài, Oanh, và Dũng cũng không có.
Không bao lâu sau ngày Đình Chiến thì chiến tranh lại bắt đầu trở lại giữa một bên là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt và bên kia là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ. Tháng tư năm 1975, Mỹ thua bỏ chạy và Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Nhiều người Sài Gòn lên máy bay chạy ra nước ngoài trước ngày 30 tháng tư. Hàng triệu người khác đã bỏ xứ ra đi bằng đường biển, bỏ lại sự sản và cơ ngơi. Một lần nữa em lại tiếp tục sống với chế độ cộng sản như chúng ta đã từng sống với chúng trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Nhưng bây giờ thì tình trạng tồi tệ hơn nhiều vì đám thắng trận không ngần ngại để lộ nguyên hình bản năng chính trị hạ cấp của họ. Em còn nhớ có lần anh nói rằng con người càng mạnh thì càng ác. Đúng, bây giờ, một khi gồm thu giang sơn về một mối rồi thì họ mạnh lắm, do đó họ rất ác độc và quỉ quyệt, cái ác độc và quỉ quyệt của những đạo quân vô học, thiếu văn hóa, chẳng khác gì đám hung nô xâm lăng những kinh thành văn minh. Họ vơ vét Miền Nam rồi mang về Bắc trong khi vẫn luôn mồm rêu rao rằng Miền Nam là cặn bã của Đế Quốc Mỹ. Đạo quân chiếm đóng đã từng bước thay những nhà tư sản Miền Nam bằng giai cấp tư bản đỏ đầy ắp tiền của và tài sản trong nước và ngoài nước nhờ vào thế lực chính trị, bóc lột lao động, tham ô móc ngoặc và đánh cắp của công. Hố chênh lệch giữa giai cấp lãnh đạo giàu sụ và đa số dân nghèo ngày nay đã quá rộng và quá sâu. Bất công xã hội đã trở thành mãn tính.
Đây có thể là xu thế chung của nhân loại ngày nay trên trái đất vì các quốc gia độc tài bây giờ không còn bị ngăn chặn như trước kia khi mà Tây Phương còn mạnh. Âu Châu đã thực sự suy nhược về kinh tế, tài chánh, xã hội, và cả quân sự, chờ ngày phá sản. Đế quốc Anh đã tan rã. Kể từ sau Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ từng bước đi xuống và lâm vào cảnh nợ nần không thể thanh toán được nữa; chính sách cai trị từng bước đi vào chủ nghĩa độc tài mềm; guồng máy quan liêu càng lúc càng trở nên cồng kềnh, tốn kém, béo phì không thể chửa trị được nữa; khoảng một phần trăm thuộc các tập đoàn tài phiệt thì rất giàu có còn đa số còn lại, mặc dù hãy còn sung túc và hạnh phúc hơn nhiều so với đám dân đen trong các xã hội toàn trị, nhưng tựu trung cũng chỉ là những giai cấp ăn theo và bằng lòng tuân thủ sự cai trị của đám đầu sỏ đang nắm đầu dây xích. Các định chế chính trị và đại học Mỹ ngày nay mang đầy đủ sắc thái của một nền văn minh nô tì, làm thuê để trả nợ. Giấc mơ của những người lập quốc dường như đã vĩnh viễn đi theo họ, nhường chỗ cho một sản phẩm tư tưởng duy lợi thiển cận và thấp kém của đám con buôn tham lam vô độ. Với giai cấp nầy Hoa Kỳ không phải là quê hương của họ mà chỉ là vùng tạm cư để làm giàu, sau đó sẽ bỏ đi và để lại đủ mọi thứ rác rưởi và những nạn nhân mãn tính của họ. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì chủ nghĩa duy lợi cũng thế. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì nó cũng làm mờ trí khôn quốc gia của Mỹ. Điều được mệnh danh là quyền lợi quốc gia đã bôi đen thần tượng Hoa Kỳ và thu nhỏ vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Chủ nghĩa lái buôn tham lam phần lớn là nguyên nhân đưa đến sự khánh tận cận kề của một cựu siêu cường. Con đại bàng Mỹ đã gần như hạ cánh vì không gian ngày nay tỏ ra quá nhỏ đối với đôi cánh của nó. Chính giai cấp lái buôn khuyển nho nầy đã giết chết nền cộng hòa Miền Nam và đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm với đám thái thú mới mệnh danh là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau khi nhận ra không thể thắng được Chiến Tranh Việt Nam, Mỹ nghĩ cách bắt tay với Trung Quốc để làm giàu vì nhìn thấy cái thị trường béo bở của nước Tàu lạc hậu. Muốn được thế, Mỹ không những bỏ rơi Miền Nam mà còn âm thầm bán đứng Quần Đảo Hoàng Sa của chúng ta cho Tàu, dùng B52 không khích ồ ạt Miền Bắc để buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam quì gối mà ký vào những mật ước nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh. Từ đó Bắc Bộ Phủ đã chính thức là tập đoàn thái thú của Tàu. Năm 1979, khi đám thân Nga còn mạnh, Cộng Sản Việt Nam đã có lần nỗi loạn với quan thầy phương bắc đưa đến cuộc xâm lăng ngắn ngày của Tàu vào những năm đó; nhưng khi khối Liên Xô tan rã, đâu lại vào đấy và Tàu một lần nữa lại tròng cái xích bắc thuộc vào cổ Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau khi trải nghiệm hai cuộc chiến tranh liên tiếp, em mới thấy rằng anh đúng. Bọn tội đồ ngày nay có mặt khắp nơi và thế giới càng ngày càng có nhiều bạo chúa và nhiều hệ thống lừa đảo được luật pháp con người chính thức che chở. Nhân loại dường như không còn lùi lại được nữa nên cứ phải nhắm mắt đi về điểm hẹn với định mệnh. Tương tự như số phận của các vì sao, hành tinh chúng ta sắp đến ngày tận thế; nhưng em ngại rằng chính con người sẽ tự hủy diệt mình trước khi ngày tận thế đó xảy ra.
Em đang sống trong thế giới của loài cừu tạp sắc và không rõ mình đang mặc sắc lông gì và cũng không rõ ngày nào sẽ bị đưa vào lò sát sinh như nhiều con cừu đáng thương khác. Dù chúng không bị đưa vào lò sát sinh thì cuối cùng linh hồn của chúng cũng bị cướp đi trong thế giới âm u của những rào cản mênh mông vô hình. Xã hội bây giờ chỉ có giai cấp bọn lừa áo đỏ và đám nô tì có bộ lông cừu vàng là sung sướng nhởn nha. Chúng và con cháu của chúng đang ngày đêm đục khoét xã hội để truy hoan và cung phụng đám tài phiệt bên ngoài. Đó là các tập đoàn tội phạm được luật pháp bảo vệ và được sự đồng lõa của các hệ thống chính trị khuyển nho Phương Tây, những đế quốc đã và đang tan rã. Những đế quốc trong thời kỳ quá độ nầy đang biến văn minh nhân loại thành những nền văn minh nô tì, làm thuê trả nợ cho các hệ thống độc tài hung hãn nhưng giàu có trên trái đất trong khi miệng vẫn ba hoa hô hào giá trị và lý tưởng về tự do, dân chủ, và nhân quyền. Về phương diện vật chất phần lớn nhân loại hiện chưa đủ nghèo để làm thành giai cấp vô sản, nhưng ngày đó không còn xa, vì hiện nay hố ngăn cách giữa giai cấp thống trị và bị trị đã quá rộng và quá sâu rồi. Nhưng dù chưa thực sự trở thành vô sản về mặt vật lý thì phần lớn xã hội loài cừu của chúng em đã thực sự vô sản về mặt tinh thần và tri thức rồi. Chính hiện tượng vong thân triệt để đó đã đưa em về lại quê hương để nhẹ bớt mùi hôi của xã hội loài cừu và bớt nhìn thấy những vũ điệu tế thần được trình diễn hằng ngày nhằm giúp loài cừu quên đi nguồn cội làm người của chúng, quên đi khát vọng và ngày mai, quên đi chính thận phận của chúng.
Anh và nhất là con thừa hiểu rằng em không thuộc những người mệnh danh chống cộng đâu, đơn giản là vì những người đó nếu có thì cũng không có ở đây mà chỉ có ở nước ngoài. Và nếu họ ở nước ngoài thì giữa họ và em không có những tương đồng đáng kể. Vã lại lịch sử đã quay lưng với họ, người Mỹ đã quay lưng với họ, và chính giới lãnh đạo của họ đã đâm sau lưng họ. Trang sử của họ đã được lật qua rồi. Còn chăng nơi họ là chút hoài niệm và thương tiếc quê hương, ngoài một số nghĩa cử mang tính biểu tượng để xoa dịu lương tâm của người bỏ chạy. Nếu có một hi vọng nào đó thì may ra chỉ có những người chấp nhận ở lại trong nước và không chấp nhận khoác chiếc áo lông cừu, dù chỉ là loại lông cừu vàng. Em đã nhìn thấy những Việt kiều về đây như những kẻ mặc áo gấm về làng, huyênh hoang hưởng thụ, khoe khoang tiền của và ăn mặc. Thậm chí có những người chỉ làm bồi bàn rửa chén, lượm lon ở nước ngoài nhưng khi về đây vẫn có thể đóng vai ông hoàng bà chúa, mướn cả "hộ vệ" đi theo để thỏa mãn bản năng thèm khát quyền lực đồng thời xoa dịu phần nào mặc cảm thua thiệt nơi xứ người; mặc cảm ở xứ người càng nặng thì về đây họ càng phô trương lớn, tựu trung chỉ để khai thác nỗi bất hạnh của người trong nước. Trong số đó chắc cũng có những người mệnh danh chống cộng hay ít nhất khi ra đi họ từng tự xưng là vì lý do chính trị, ra đi theo chương trình "HO". Cũng có những nhân vật tai to mặt lớn hay văn nghệ sỹ tầm vóc thời chế độ cũ, vì đồng tiền hay danh tiếng, trở về không những chỉ thế mà còn nghênh ngang tuyên bố phản bội chính mình và phản bội chế độ mà mình đã một thời phục vụ. Họ ra đi với lý do là không chấp nhận chế độ cộng sản; đồng ý; nhưng giả sử chế độ cộng sản không còn tồn tại nữa trên đất nước nầy thì liệu có bao nhiêu người trong số họ sẽ tự nguyện và vui sướng trở về sống chết với quê hương?
Khi thư nầy viết xong, em sẽ làm theo lời anh dặn, sẽ đi thuyền theo sông Thu Bồn và đi từ quê hương Duy Xuyên của chúng ta, ngược dòng lên thượng nguồn để đến Nông Sơn và sau đó là Hòn Kẽm Đá Dừng. Em sẽ lên sườn phía tây của đỉnh núi phía tây vào một ngày nắng ấm, lên cao được chừng nào hay chừng đó, đến khi không còn lên được nữa thì dừng lại. Bấy giờ em sẽ đem thư nầy ra đọc lớn lần cuối rồi đốt cho tro bay vào nắng và gió của Hòn Kẽm Đá Dừng.
Anh nhớ hồi âm em càng sớm càng tốt. Cách tốt nhất là về với em trong giấc ngủ. Có anh em sẽ sống lại những ngày thần tiên nắng ấm khi mới quen nhau. Có anh em sẽ quên đi chuỗi ngày cô đơn lạnh giá nầy và quên đi những hoài vọng khôn nguôi. Có anh em sẽ tiếp tục sống sót buổi hoàng hôn bất tận hiện thời dù sau đó không biết sẽ đi về đâu, làm gì và kết liễu ở đâu, thế nào…
Anh hãy cố đi tìm con mình anh nhá. Đương nhiên, không đi tìm theo nghĩa vật lý như tìm nhau trên trái đất nầy mà đi tìm trong những chiều không gian song song như anh đã đi tìm em và gặp được em hôm nay.
Mong anh và nhớ anh nhiều,
Trang."
Xin tìm đọc
THE SUN HUNTERS - NGƯỜI ĐI SĂN MẶT TRỜI - Đông Yên
Phiên bản bìa mềm có thể đặt mua vớii
(I) Đỉnh Sóng P.O. Box 8231 Fountain Valley, CA 92728 - (714) 473-3691 -
dinh-song@att.net
(II) Nhà sách Tự Lực và các nhà sách VN tại Mỹ
Tu Luc Website:
TULUC.COM
ĐT: (714) 531-5290 ** Email:
buybooks@tuluc.com