- Mặc dù đã được toán tham mưu báo về những biến cố đã xảy ra ở Washington, TT Bush vẫn tiếp tục đọc truyện "Con dê khờ hữu dụng" (The Pet Goat) cho các học sinh.
- Trước khi rời trường tiêu học ở Florida, TT Bush tuyên bố sẽ lập tức bay trở về Washington. Tuy nhiên, khi đến sân bay, chiếc Air Force One bị buộc phải đổi hướng bay. Khi rời phi đạo, chiếc Air Force One không cất cánh theo lối một phi cơ phản lực quy ước mà cất cánh theo độ thẳng đứng gần giống như một phi cơ trực thăng, không được phản lực cơ chiến đấu của Không Quân Hoa Kỳ hộ tống cho mãi đến sau một giờ bay.
Kể từ khi xảy ra biến cố 9/11vào ngày 11/9/2001, các chính quyền Hoa Kỳ và truyền thông chính dòng tiếp tục cố tình làm cho dân chúng Hoa Kỳ và thế giới tin rằng đó là một vụ "khủng bố" do tổ chức Al Qaeda Hồi Giáo chủ mưu, mặc dù lịch sử đã chứng minh theo hướng khác. Webster Griffin Tarpley, một trong những nhà nghiên cưu khả kính nhất và nổi tiếng nhất về cấu trúc của âm mưu 9/11, đã phơi bày những chỉ dấu cho thấy một thành phần thứ ba trong biến cố nầy, bên trên và bên kia thành phần lưu manh trong guồng máy an ninh quốc gia Hoa Kỳ, một thành phần tất yếu theo giả thuyết
LIHOP (Let It Happen On Purpose - Cố tình để xảy ra ) và
MIHOP
(Make It Happen On Purpose - Cố tình gây ra). Thuyết
LIHOP
không thể giải thích sự vắng mặt của phòng không trong một giờ 45 phút, và sự phá hủy có hệ thống nhằm đánh sập Tòa Tháp Đôi. Người ta đã thấy trổi lên điều mà Tarpley gọi là "Bush-Cheney
MIHOP
position" - nghĩa là Tổng Thống và Phó Tổng Thống là những người đã tích cực hoạch định cuộc hành quân, một giả thuyết mà Tarpley không xem là đáng tin cậy, vì như thế thì kế hoạch đó đặt một phần những chi tiết hành quân trong tay một tên vô lại (Bush) và một người mang bệnh tim đang chờ chết (Cheney). Có thể Bush và Cheney chỉ có một số hiểu biết hạn chế hay thậm chí vai trò hoạch định nào đó, nhưng họ không dính líu vào trình độ sâu nhất của trình độ hai, và chắc chắn không dính líu đến trình độ ba tối quan trọng.
Từ chỗ phủ nhận thuyết
LIHOP
và nhiều phiên bản khác nhau của giả thuyết
MIHOP
của Bush-Cheney, Tarpley cho rằng thảm kịch 9/11 là một cuộc đảo chánh có hệ thống, một biến cố báo động giả của âm mưu "khủng bố tổng hợp (synthetic terror)" do nhà nước hậu thuẫn nhằm khởi động kịch bản xung đột giữa các nền văn minh (clash of civilizations) như tựa đề cuốn sách nổi tiếng của Samuel Huntington. Tarpley đứng về giả thuyết
MIHOP
. Thuyết
MIHOP
tượng trưng cho quan điểm phân tích vốn xem những biến cố 9/11 như là một khởi động cố tình bởi một hệ thống những viên chức cao cấp sống ngoài vòng pháp luật đang làm ung thối bộ máy quân sự và an ninh của Hoa Kỳ và Anh Quốc, một hệ thống chung quy được đô hộ bởi Wall Street và đám tài phiệt Do Thái tại London. Trọng tâm của thuyết
MIHOP
của Tarpley là sự kiện nhiều cuộc tập trận đã diễn ra vào ngày 11/9/2001, và chính những vụ tấn công 9/11 cũng xảy ra trong khung cảnh đó, xử dụng cái bình phong của những cuộc tập trận để làm rối loạn hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Hoa Kỳ. Duy sự kiện nầy không thôi cũng đủ cho thấy rằng kế hoạch chi tiết của vụ 9/11 phải đạt đến một điểm nào đó bên trong cơ cấu an ninh quốc gia và quân đội Hoa Kỳ. Đó là trình độ được gọi là "Level Two" (Trình độ Hai) hay
"The Rogue Network" (Hệ Thống Lưu Manh). Cuộc tập trận
Global Guardian
là một trong những cuộc tập trận đó, dính líu đến toàn bộ kho dự vũ khí hạch tâm và nhiệt hạch chiến lược của Hoa Kỳ. Cuộc tập trận nầy dính líu đến các căn cứ không quân có trang bị bom nhiệt hạch như căn cứ Barksdale ở Louisiana, và Offut ở Omaha, thuộc tiểu bang Nebraska, cả hai đều là nơi mà Tổng Thống Bush bay đến vào ngày 11/9/2001 sau khi rời Florida trên chiếc phi cơ
Air Force One
. Tarpley ghi nhận rằng động cơ của phi vụ của Bush đến Căn Cứ Offut ở Omaha phát xuất từ sự kiện: tại đó, ngày hôm đó, có sự hiện diện của Tướng Brent Scowcroft và tỉ phú Do Thái Warren Buffet, được xem như một dạng "Ủy Ban An Ninh Quốc Gia" tiềm năng (potential Committee of Public Safety). Nói cách khác, một nhóm người đã tụ tập tại tổng hành dinh của lực lượng nguyên tử chiến lược Hoa Kỳ như một thành phần tiềm năng cho một cuộc đảo chánh, đòi hỏi Tổng Thống Bush phải đích thân hiện diện để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với các lực lượng nguyên tử Hoa Kỳ -
đổi lại ông phải tuân theo các đòi hỏi của phe nổi dậy. Việc chuẩn bị chiến tranh nguyên tử cùng với vụ khủng bố tự tạo kinh thiên 9/11 dứt khoát được hoạch định để làm bối cảnh cho lời tuyên bố của Bush, thứ nhất cho Tổng Thống Nga Putin và thứ đến cho thế giới, rằng Hoa Kỳ sẽ chiếm Iraq và Afghanistan cũng như những căn cứ ở Trung Á thuộc Liên Xô cũ. Bất kỳ quốc gia nào muốn chống lại những kế hoạch như thế đều phải đối mặt với sức mạnh nguyên tử của Hoa Kỳ. Đương nhiên 9/11 không phải là một vụ khủng bố Hồi Giáo, vì trước khi xảy ra vụ khủng bố đó có một cuộc điện đàm giữa Bush và Putin cũng ngày 11/9/2001. Cuộc điện đàm đó là biến cố trọng tâm về mặt ngoại giao và chiến lược của ngày hôm đó, mặc dù hầu hết các sách nói về vụ 9/11 không hề đề cập đến nó. Thực vậy, trong cuộc điện đàm đó, Bush đã gởi đi một tối hậu thư cho biết Hoa Kỳ đã quyết định xâm chiếm Iraq và Afghanistan… cùng với những căn cứ tại Trung Á của Liên Xô cũ. Tarpley cho rằng Putin đã nhượng bộ những đòi hỏi đó, vì biết rằng nỗ lực của Hoa Kỳ ở Afghanistan sẽ không thành công hơn những nỗ lực của Liên Xô trước kia, và vì một nỗ lực lớn như thế tại Trung Á và Trung Đông chung quy sẽ xói mòn sức mạnh của Hoa Kỳ.
Theo một số báo cáo vào ngày 12/9/2001 và 13/9/3001, Ari Fleischer, trưởng ban báo chỉ của Bush, cho biết rằng Cơ Quan Mật Vụ (Secret Service) đã nhận được những hăm dọa khả tín của các kẻ tấn công - không nêu đích danh - trong ngày 11/9, cho thấy Tòa Bạch Ốc và phi cơ
Air Force One
cũng là những mục tiêu. Chính Tờ
New York Times tường thuật rằng những hăm dọa nói trên được xem là khả tín, vì
chúng được truyền tải với những mã khóa định danh duy nhất dành riêng cho chính Tòa Bạch Ốc. Theo Thierry Meyssan, một nhà nghiên cứu người Pháp, điều đáng kinh ngạc hơn nữa, qua lời thuật của các sỹ quan tình báo, tờ
World Net Daily nói rằng
những kẻ tấn công cũng có những mã khóa của Cơ Quan Drug Enforcement Agency (DEA), National Reconnaissance Office (NRO), Air Force Intelligence (AFI), Army Intelligence (AI), Naval Intelligence (NI), Marine Corps Intelligence (MCI), những dịch vụ tình báo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ. Mỗi mã khóa nầy chỉ được một nhóm nhỏ sỹ quan biết đến. Cùng lắm họ cũng chỉ biết một vài mã khóa chứ không được biết tất cả. Điểm trọng yếu nên ghi nhận là một số mã khóa mà các kẻ tấn công được nói đã biết chính là những mã khóa của cơ quan tối mật
National Reconnaissance Office, một trung tâm chuyên điều hợp tất cả những vệ tinh gián điệp của Hoa Kỳ và điều hợp những dữ liệu gián điệp của chúng. Việc xử dụng các mã khóa để tạo nên độ khả tín và khả năng của những kẻ tấn công có nghĩa là nhà nước Hoa kỳ, và quan trọng hơn, những trình độ cao hơn và sâu hơn của định chế an ninh quốc gia và quân sự của nó đã bị Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái thâm nhập và điều khiển theo ý muốn, với sự đồng lõa của hệ thống lưu manh bên trong chính phủ Hoa Kỳ đang hoạch định nhiều âm mưu khác nhau. Đối với một khả năng truy cập quá nhiều những mã khóa như thế, rất có thể Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái có đủ khả năng cướp quyền của tổng thống Hoa Kỳ, hạ lệnh xử dụng vũ khí nguyên tử, và biến cuộc tập trận
Global Guardian
thành cuộc hành quân thực sự. Và như thế, khi cho phép George W. Bush giữ lại quyền kiểm soát quân đội, họ cho phép ông chính thức nắm điều khiển tổng hành dinh của Bộ Chỉ Huy Chiến Lược Hoa Kỳ STRATCOM ở Offut và đích thân ra lệnh và thu hồi lệnh từ đó. Đây là lý do tại sao ông đã đích thân đến đó. Nói cách khác, chính phủ ở Washington đã bị đám đảo chánh bắt, những thành viên chủ chốt bị bắt, bị tống xuống một giao thông hào của Tòa Bạch Ốc mà không có sự đồng ý của họ và họ bị đặt dưới chế độ "bảo vệ," cho phép Tổng Thống tái khẳng định quyền kiểm soát đối với hệ thống chỉ huy chiến lược của quân đội bằng sự hiện diện của ông tại tổng hành dinh liên quan, đề phong một xung đột nguyên tử có thể xảy ra - nhưng, đổi lại,
Tổng Thống phải tuân theo các đòi hỏi của phe nổi dậy.
Thế thì chủ quyền của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã, đang, và sẽ thuộc về ai?
Phải chăng các tổng thống Mỹ trước kia và hiện nay chỉ là những tên khờ hữu dụng, những viên toàn quyền do Israel áp đặt để cai trị người dân Hiệp Chủng Quốc theo lệnh của Hệ Thống Siêu quyền Lực Do Thái?
Như thường lệ, môi năm khi đến ngày 11 tháng 9, các quan tai to mặt lớn trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp Hoa Kỳ thuộc cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa lại tề tựu với nhau, dọc diễn văn, giả vờ "tưởng niệm" các nạn nhân 9/11, giả vờ chửi bới đám "khủng bố Hồi Giáo" trong khi bọn khủng bố đó không ai khác hơn là chính họ, là CIA, Israel, Mossad, và hệ thống lưu manh trong quân đội và Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ - một dạng "khủng bố" cây nhà lá vườn. Họ là những tay nói láo chuyên nghiệp, không ngượng mồm và không xấu hổ - đơn thuần là vì họ là những sinh vật người máy được Do Thái điều khiển não từ trong trứng, được Do Thái Lập trình để xem phần còn lại của nhân loại như một nhà trẻ lên ba hay chủng loại người hang chưa một lần nhìn thấy ánh sáng mặt trời mà chỉ nhìn thấy bóng của chính mình trên vách hang và yên tâm nghĩ rằng thế giới địa chính trị ngày nay chỉ có thế, nhắm mắt tin theo truyền thông chính dòng và truyền thông thiểu số để tự bần cùng hóa tri thức chính trị của mình.