1. Phiên bản nhà nước (Wikipedia, Feb 5, 2016)
1.1 Lược thuật
Vụ đánh bom ở Oklahoma City là một cuộc tấn công khủng bố nội bộ (domestic terrorist bomb attack) nhắm vào cao ốc liên bang Alfred P. Murrah của thành phố nầy vào ngày 19/4/1995, do Timothy McVeigh và Terry Nichols thực hiện, giết chết 168 người và làm bị thương hơn 680 người khác. Vụ nổ đã phá hủy hay làm hư hỏng 324 tòa nhà trong vòng bán kính 16 dặm, phá hủy hoặc làm cháy 86 chiếc xe, làm vỡ cửa kính của 258 tòa nhà lân cận, gây ra những thiệt hại trị giá khoảng $652 triệu
dollars. Sau vụ nổ, những nỗ lực cấp cứu quy mô được tiến hành bởi các cơ quan địa phương, tiểu bang, liên bang, và toàn thế giới cùng với những đóng góp lạc quyên lớn lao đến từ khắp Hoa Kỳ. Cơ quan Cấp Cứu Liên Bang
Federal Emergency Management Agency (FEMA) đã điều động 11 đơn vị xung kích
Urban Search and Rescue Task Forces gồm 665 nhân viên trong các công tác cấp cứu và phục hồi.
1.2 Động cơ
Theo Wikipedia, những tên chủ mưu chính, Timothy McVeigh and Terry Nichols, đã gặp nhau vào năm 1988 tại căn cứ Fort Benning trong thời gian huấn luyện quân sự trong Quân Đội Hoa Kỳ. Cùng với Michael Fortier, tòng phạm của McVeigh, bấy giờ cũng là bạn cùng phòng của y, cả ba đều tham gia phong trào
Survivalism. [Cũng the Wikipedia, phong trào nầy, còn gọi là
Prepper, bao gồm những cá nhân và tập thể tích cực chuẩn bị tiến hành những vụ khinh động như gây rối trật tự xã hội hay chính trị, trên những phạm vi từ địa phương đến quốc tế. Phong trào nầy thường được huấn luyện cấp cứu và tự vệ, tích lũy lương thực và nước uống, chuẩn bị để có thể tự túc, và xây dựng hậu cứ (như chỗ ẩn nấu và hầm bí mật) nhằm giúp họ sống sót sau một đại họa.] Theo Wikipedia, nhóm người nầy công khai công phẫn trước lối hành xử của chính phủ liên bang vào năm 1992 trong các vụ
Randy Weaver ở Ruby Ridge cũng như vụ bao vây ở
Waco, Texas. [Xin xem tài liệu liên quan về vụ Waco ở địa chỉ:
Theo Wikipedia, vào tháng 3/1993, McVeigh có mặt tại hiện trường trong thời gian bao vây
Waco cũng như sau khi kết thúc cuộc bao vây nầy. Do đó, McVeigh đã quyết định đánh bom một tòa nhà liên bang như một phản ứng trả thù cuộc bao vây.
2. CIA và những đường dây buôn vũ khí và ma túy
2.1 Boland Amendment: Luật bất can thiệp
Bên trên là phiên bản nhà nước, nghe vậy nhưng không phải vậy. Đó chỉ là bằng chứng cho thấy quy mô truyền thông ngu dân, và bịp bợm trơ trẽn do bọn Do Thái tiến hành. Những phiên bản nhà nước nầy được tích lũy từ thập niên nầy qua thập niên khác để tạo thành hội chứng Do Thái rất tương tự với hội chứng cộng sản: hội chứng ăn gian nói dối. Bất hạnh thay phần lớn người Mỹ và thế giới vẫn cứ tin đó là sự thật! Đó cũng là lý do tại sao Do Thái và truyền thông Do Thái trị xem phần còn lại của nhân loại như một nhà trẻ lên ba
Nguồn gốc vụ đánh bom phức tạp và sâu xa hơn nhiều chứ không phải những động cơ khôi hài và ấu trĩ như Wikipedia giả vờ cho thấy. Vụ nổ không phải là một vụ "khủng bố nội bộ" mà là một âm mưu phi tang những hồ sơ liên quan đến những đường dây buôn bán ma túy nhằm tài trợ những hoạt động bí mật của
CIA qua trung gian của Bill Clinton bấy giờ là thống đốc tiểu bang Arkansas. Những thương vụ ma túy nầy đã có từ thập niên 1950. Những hoạt động bí mật chủ yếu được thực hiện theo ý đồ của Hệ Thống Siêu Quyền Lực
Illuminati của Do Thái và chủ yếu phục vụ quyền lợi của hệ thống nầy và của Israel. Nhưng với Tu chánh Án
Boland Amendment vốn nghiêm cấm những hoạt động nầy,
CIA và
NSC (National Security Agency) bị thách thức nghiêm trọng về mặt tài chánh. Muốn qua mặt Quốc Hội Hoa Kỳ họ không biết lấy đâu ra tiền ngoại trừ tiến hành những vụ buôn lậu vũ khí và nhất là ma túy.
2.2 Vụ Contras
Như một ví dụ, trong thập niên 1960, chính quyền Reagan muốn lật đổ chính phủ Nicaragua bằng những tên đánh thuê cánh hữu mệnh danh là
Contra (Counter-revolutionary) có căn cứ tại Honduras. Nhưng Quốc Hội thời đó cấm đoán chuyện nầy nên họ đi vòng bằng cách tài trợ bọn
Contra qua ngả Iran. Bước đầu Reagan cung cấp vũ khí cho Iran với hy vọng nhờ Iran giúp giải cứu những con tin Mỹ bị bọn khủng bố Hezbollah bắt giữ ở Lebanon. Vụ bán vũ khí nầy bao gồm 1,508 hỏa tiễn chống tăng
TOW và 500 hỏa tiễn địa không
HAWK , tất cả được chuyển từ Israel đến Iran. Hoa Kỳ bấy giờ đã thu về hàng triệu
dollars nhờ những vụ bán vũ khí nầy. Bước kế tiếp, Hoa kỳ chuyển số tiền nầy cùng với vũ khí và chiến cụ sang cho bọn
Contra ở Nicaragua, vốn là một lực lượng vũ trang chống lại chế độ Sandinista Junta và có cơ may lật đổ được chế độ nầy theo ý đồ của Hoa Kỳ. Những nguồn tiền khổng lồ đó, trước hết và trên hết, được thực hiện qua những tổ chức buôn ma túy do
CIAtiến hành.
2.3 Nguyễn Cao Kỳ và Air Vietnam trong Chiến dịch ma túy Tam Giác Vàng
(Chi tiết nầy được trình bày trong chương 32 của cuốn "
The Medusa File: Secret Crimes and Coverups of the U.S. Government của Craig Roberts.)
Theo Craig Roberts, trong thập niên 1960 và 1970, một đường dây ma túy quy mô được phát triển chung quanh Khu Tam giác Vàng ở Lào. Từ những bộ lạc xa xôi như Mèo và Hmong nơi trồng cây á phiện, những tổ chức bình phong của
CIAnhư
Air America vận chuyển á phiện sống đến những điểm tập trung bên trong nước Lào – căn cứ chính là Long Cheng – sau đó đến Vạn Tượng, nơi á phiện được chế biến thành
heroin ròng tại một nhà máy vô chai
Pepsi-Cola – nhà máy nầy không bao giờ cho xuất xưởng
Pepsi. Sau đó ma túy rời khỏi nước nầy qua bốn đường dây:
(i) Hong Kong - San Francisco, được mạng lưới
Santos Trafficante tiếp thu để phân phối bên trong Hoa Kỳ;
(ii)
Air Vietnam vận chuyển á phiện đến Đà Nẵng và Saigon và được mạng lưới của Nguyễn Cao Kỳ phân phối;
(iii) Singapore đến Úc, do những đại diện phức tạp của hệ thống ngân hàng
Nugan Hand đảm trách;
(iv) Bangkok đến Marseille, được phân phối bởi băng đảng
Corsican Mafia.
Tất cả lợi nhuận được thu về qua hệ thống ngân hàng
Nugan Hand nhưng chỉ có một phần nhỏ được xử dụng để tài trợ chiến tranh – dường như phần lớn đã đi vào những tài khoản tư nhân sau khi đi qua then máy rửa tiền của hệ thống
Nugan Hand. [Điều nầy có nghĩa là tài trợ chiến tranh chỉ là việc nhỏ, điểm chính là vỗ béo những chủ tài khoản tư nhân nói trên. Khi một cuộc chiến trở nên quá tốn kém so với số thu nhập buôn lậu ma túy và vũ khí, các tập đoàn tài phiệt không ngần ngại "xoay trục." Đó là lý doa tại sao, sau khi bỏ rơi Chiến Tranh Việt Nam, đường dây ma túy đã chuyển hướng trở lại sang Nam Mỹ, như sẽ được trình bày ngay trong phần dưới đây.]
3. Tiểu bang Arkansas và Đường dây ma túy Nam Mỹ
Một lần nữa ở đây, buôn lậu ma túy là phương pháp hàng đầu để tài trợ những hoạt động bí mật của
CIA. Theo Terry Reed, một cựu nhân viên
CIA, và một số nguồn khác, đường dây ma túy Nam Mỹ hoạt động như sau:
Cocaine từ các tổ chức ma túy ở Columbia được vận chuyển đến căn cứ không quân Panama. Ở đây những nhân viên của Manual Noriega xén bớt một phần của ho. Những nhân viên nầy bao gồm (1) Michael Harare, một đại tá Do Thái đồng thời là cố vấn cho Noriega, và (ii) Amiram Nir, một nhân viên của cơ quan tình báo
Mossad của Do Thái. Sau đó ma túy được hãng
Corporate Air Service, Ltd vận chuyển đến căn cứ không quân
Illopango ở El Salvador và chia thành ba đợt:
(i) đến Nam California,
(ii) đến Guadalajara, Mexico, ở đó ma túy được đóng thành kiện và được vận chuyển bằng xe tải đến Texas, và
(iii) đến Mena, thuộc tiểu bang Arkansas để phân phối xa hơn. [Xin đừng quên Bill Clinton bấy giờ là Thống Đốc của Arkansas]. Hãng Hàng Không vận chuyển ma túy từ
Illopango đến ba chặng nói trên là một công ty hàng không của
CIA tại Miami.
Đó là những gì đã xảy ra ở Mena, đầu mối của âm mưu phi tang các hồ sơ
mafia ở Oklahoma City, một địa điểm kế cận Arkansas.
3.1 Bill Clinton và Rose Law Firm: Hối lộ và rửa tiền
Theo Terry Reed và một số nguồn khác,
cocaine được không vận đến phi trường Mena bởi các phi công mệnh danh là
"enterprise pilots" đến từ Honduras và El Salvador – đôi khi đến từ Panama. Ma túy sau đó được chuyển sang những máy bay nhỏ hơn để phân phối xa hơn bên trong Hoa Kỳ. Hầu như tất cả những máy bay nhỏ nầy – thường là những máy bay hai động cơ - được đánh cắp từ các phi trường tư nhân và được sơn lại với những bảng số giống như trên các phi cơ của các chủ nhân bình thường. Theo Reed, tiền hối lộ cho các viên chức chính phủ Arkansas được chuyển vào ban đêm trên các chuyến bay mệnh danh là
"green flights" và được thả dù xuống trong những túi đệm trong khu vực thuộc quyền sở hữu của một phụ tá của Thống Đốc Bill Clinton. Sau đó tiền được tiếp nhận và chuyển đến Little Rock, địa bàn rửa tiền của xí nghiệp
Rose Law Firm và
ADFA (Arkansas Development Finance Authority) . Trong hệ thống rửa tiền nầy, Reed cho thấy chi tiết sự cấu kết giữa
Rose Law Firm với
ADFA , Felix Rodriguez, James và Susan McDougal (Whitewater Development Corporation),
Stephens Incorporated (Jackson Stephens ở Little Rock), Bert Lance của
BCCI ,
First American Trust, National Bank of Georgia (Lance), Madison Guaranty S& L, Worthan Bank, và một số chi nhánh của
BCCI. Trong những năm xảy ra vụ Iran/Contra, những cơ quan
FBI, IRS, và
DEA (Drug Enforcement Administration) đã điều tra những vụ
CIAchuyển ma túy vào Mena và những địa điểm khác. Hàng ngàn trang báo cáo điều tra bấy giờ được thảo ra và lưu trữ ở Arkansas tại các văn phòng liên quan nói trên và ngay tại văn phòng của Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ.
3.2 Vince Foster: tay điều hợp âm mưu
Tay chơi chủ chốt trong âm mưu rửa tiền của
Rose Law Firm chính là Vince Foster. Vốn là một nhân vật vô danh dưới quyền của Hillary Clinton và Webster Hubbell, Foster đã len lõi qua một công ty chí nhánh mang tên
Systematics, Inc. - được giả định nhằm rót những khoản ký thác vào các ngân hàng nhỏ khác nhau trong nước, sau đó chuyển đến một ngân hàng lớn hơn ở Chicago. Những khoản ký thác nầy cuối cùng sẽ chuyển đến những trương mục nước ngoài ở Quần Đảo Cayman (thuộc Anh) và Thụy Sỹ. Bấy giờ, Foster được giả định đã thiết lập một trương mục cá nhân cho mình tại Thụy Sỹ để giải quyết phần tiền của riêng y.
Số tiền hối lộ ma túy được ước tính hơn $50 triệu và được che giấu trong những trương mục mang tên
"Chelsea Jefferson." Khi Bill Clinton lên làm tổng thống ở Washington, ông đã chọn Foster và một số cộng sự viên khác cho ông. Foster được bổ nhiệm làm nhân viên liên lạc với Cơ Quan An Ninh Quốc gia
NSA , một cơ may bằng vàng, vì ít có nhân viên nào của Clinton có thể thành công qua tiến trình kiểm tra lý lịch an ninh và nhận được quy chế
"security clearance (sạch lý lịch)." Theo những nguồn tin khác,
Mossad, cơ quan tình báo Israel, đã theo dõi những hoạt động của Foster và đã quay phim y. Sau khi trở thành một tay trong tại cơ quan
NSA có quyền truy cập những bí mật bao gồm những mã số, có thể Foster được
Mossad tiếp cận và đưa ra một đề nghị nào đó mà y khó lòng từ chối.
Mossad biết quá rõ đường dây ma túy đến Arkansas vì đã từng nằm trong cơ sở của chiến dịch bán vũ khí chuộc con tin của
NSA, thậm chí còn có một nhân viên đang ứng chiến ở Panama suốt thời gian vận chuyển ma túy và những dự án khác, đồng thời cung ứng một kế hoạch nhằm thay thế vũ khí cho tổ chức
Contras sẽ do công ty
"machine tool company" của Terry Reed chế tạo ở Guadalajara. Theo những nguồn tin tay trong, kế hoạch nầy rất đơn giản: Foster phải rò rĩ những mã số và bí mật cho Israel để đổi lấy lời hứa không bị Israel phơi bày y về những cấu kết của y với các vụ buôn ma túy và kế hoạch rửa tiền của Bill Clinton. Ngoài ra, Israel sẽ cho thêm tiền vào trương mục của y ở Thụy Sỹ, một trương mục mà họ đã khám phá được bằng một nhu liệu rất đặc biệt mà một nhân vật giấu tên trong chính phủ Mỹ đã trao cho họ.
4. Vụ tai tiếng Inslaw
4.1 Inslaw Inc. và nhu liệu PROMIS
Inslaw là một công ty nhu liệu điện toán ở Washington, D.C. do William và Nancy Hamilton làm chủ. Công ty nầy cung ứng những nhu liệu tạo tác (case management software) cho các tòa án cũng như các cơ quan tư pháp khác, cho kỹ nghệ bảo hiểm, những xí nghiệp luật lớn cũng như những văn phòng luật của các xí nghiệp. Sản phẩm chính của
Inslaw là một lập trình điện toán tinh xảo cao cấp mang tên
PROMIS (Prosecutors Management Information System). Nhu liệu nầy dùng để quản lý những lượng thông tin lớn, truy nguyên dữ liệu trong các giàn máy đại khung
mainframe như các vụ kiện của tòa án, những trương mục ngân hàng, v.v... Thực ra,
PROMIS có thể truy nguyên hầu như bất kỳ thứ gì; nhưng mục tiêu chủ yếu của Bộ Tư Pháp là theo dõi những vụ buôn lậu ma túy và rửa tiền buôn lậu ma túy giữa các ngân hàng.
Thành tố trọng yếu của nhu liệu nầy chính là thảo trình gián điệp cửa hậu (backdoor) được soạn thảo bởi Michael Riconosciuto, một vật lý gia đồng thời là nhà toán học tốt nghiệp Stanford. (Trước khi được
Inslaw Inc. mướn viết lập trình điện toán, Riconosciuto còn là một chuyên viên thuốc nổ đã phát minh ra chất nổ hai thì mang tên
Electro-Hydrodynamic Gaseous Fuel Device được giả đoán được xử dụng trong vụ nổ bom ở Oklahoma City). Thảo trình
backdoor nầy giúp các nhà điều tra di chuyển những tài khoản từ một trương mục phi pháp sang một tài khoản nào khác như Bộ Tại Chánh, chẳng hạn. Một khi được cài đặt trên hệ thống vi tính của một người khác, nhu liệu nầy cũng có thể được dùng để thăm dò những dữ liệu trên máy từ bên ngoài.
CIAđặt biệt quan tâm về phương diện nầy. Nếu bán sản phẩm nhu liệu nầy cho những nước khác – nhất là những cơ quan tình báo – những con chồn dữ liệu của
CIA, từ xa, có thể đột nhập những hệ thống máy tính của họ, quan sát, và biết hết những gì đang xảy ra rồi bỏ đi mà không bị phát hiện.
4.2 Bộ Tư Pháp của Clinton đứng trên pháp luật
Năm 1982,
Inslaw thắng một hợp đồng với Bộ Tư Pháp để cài lắp nhu liệu
PROMIS trong các văn phòng luật sư của bộ nầy. Tuy nhiên, người phụ trách cai quản hợp đồng nầy lại là Madison Brewer, một người trước đó dã bị ,
Inslaw sa thải. Chỉ một tháng sau khi hợp đồng được ký, Brewer đề nghị chấm dứt hợp đồng mặc dù
Inslaw không hề vi phạm hợp đồng. Bộ Tư Pháp từ chối trả $2.5 triệu cho
Inslaw theo hợp đồng và
Inslaw bị phá sản vì thua kiện và phải trả án phí. Vào năm 1987, Thẩm Phán George Bason thuộc Tòa Án Phá Sản Hoa Kỳ ra phán quyết xử thắng cho
Inslaw với số tiền bồi thường $6.8 triệu, vì cho rằng các viên chức Bộ Tư Pháp đã lấy, sửa đổi và đánh cắp nhu liệu
PROMIS bằng mưu kế, gian lận, và lường gạt. Tiếc thay, số tiền đó đã chẳng bao giờ được trả. Về sau Thẩm Phán Bason có thể đã hối tiếc phán quyết đó của mình khi ông bị từ chối tái bổ nhiệm và thẩm phán thay thế ông chính là người đã bênh vực cho Bộ Tư Pháp. Tất cả điều đó chứng tỏ rằng Bộ Tư Pháp của Bill Clinton đứng trên luật pháp và vụ tai tiếng
Inslaw minh họa đầy đủ quy mô rộng lớn của âm mưu chính phủ. Những kế hoạch bao che ém nhẹm vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay.
4.3 Nhu liệu PROMIS, CIA, và Vince Foster
Nhu liệu
PROMIS cuối cùng vấn không được trả tiền theo hợp đồng nhưng vẫn được Bô Tư Pháp phát tán đến các "khách hàng" của họ khắp nơi. Như vừa trình bày ở trên, một trong những khách hàng đó là
CIAvà cơ quan nầy đó đã bán nhu liệu nầy cho nhiều "khách hàng" khác nữa, trong đó có
Mossad, cơ quan tình báo Israel. Chỉ sau khi vụ buôn bán nầy một nhóm chuyên viên nào đó bên trong
CIAmới khám phá ra một thành tố hấp dẫn (đặc công backdoor được đề cập bên trên) trong khi xử dụng
PROMIS. Họ đã thường xuyên thâm nhập hệ thống điện toán của
Mossad để kiểm tra xem có cơ quan nào đang dược trả tiền. Họ đã khám phá một số chi trả đi vào một trương mục Thụy Sỹ mang tên Vincent Foster - trước đây không hề được biết đến. Họ truy tầm tiếp vụ việc và nhận thấy khoản tiền tồn vượt quá $2.5 triệu. Nếu như thế, rõ ràng Foster không tích lũy số tiền nầy bằng những phương tiện hợp pháp/bình thường.
Đến đây, câu chuyện cho thấy rằng tin đồn về việc Foster làm gián điệp cho Israel được cố tình rò rĩ đến Tòa Bạch Ốc để xem phản ứng của Foster và của chính quyền ra sao. Nếu đúng thì kịch bản có thể như thế nầy: Một viên chức cao cấp Tòa Bạch Ốc sẽ gọi Foster để báo cho biết rằng
CIAđang theo dõi y – về việc làm gián điệp cho Israel. Foster sẽ hốt hoảng. Y không thể cầu cứu Tòa Bạch Ốc vì bấy giờ họ muốn đoạn giao với những hoạt động của y, những hoạt động rất tai hại nếu công chúng biết được – nhất là dính líu đến ban tham mưu của Clinton vốn có vấn đề lý lịch an ninh ngay từ đầu. Y cũng không thể trông cậy vào những cơ quan liên bang khác giúp đỡ. Sớm muộn gì y cũng sẽ bị
FBI hỏi thăm sức khỏe; và y không rõ
FBI nắm được bao nhiêu thông tin về y, thông qua bộ phận đặc biệt nầy của
CIAvốn không dính líu đến vụ Iran/Contra hay buôn lậu ma túy và rửa tiền qua Arkansas. Foster quyết định "từ chức" và hy vọng vợ chồng Clinton có thể có kế hoạch cứu nguy cho y. Y quyết định rời Hoa Kỳ, rút hết tiền trong ngân hàng Thụy Sỹ rồi biến mất vô thời hạn cho đến khi mọi chuyện qua đi. Tuy nhiên,
CIAđã xử dụng độc chiêu
backdoor của
PROMIS và vét hết tiền trong trương mục của Foster và chuyển số tiền nầy sang tài khoản của Bộ Tài Chánh. Khi Foster gọi Thụy Sỹ chuẩn bị trước thủ tục để, khi đến, y sẽ rút một số tiền lớn, ngân hàng cho y biết trương mục của y không còn tiền.
4.4 MOSSAD và Vince Foster
Vì sạch túi và không nơi nương tựa, Foster đành quay sang điểm tựa duy nhất có thể có bấy giờ: Cơ Quan tình báo
Mossad của Do Thái. Rất có thể
Mossad hạch hỏi những ai đã nói chuyện với y và y có bị
FBI hay
CIA thẩm vấn hay không. Khi những câu trả lời của y tỏ ra không ổn, rất có thể
Mossad bảo Foster "gặp chúng tôi tối nay tại bãi đậu xe và chúng tôi sẽ giải quyết mọi chuyện tốt đẹp." Đến đây câu chuyện trở nên gay cấn. Người ta tìm thấy Foster năm chết dưới đất tại Công viên
Fort Marcy Park, tay phải hãy còn cầm một khẩu súng (mặc dù y là người thuận tay trái) – tất cả được giàn dựng như một vụ tự sát.
Sau khi Foster chết, văn phòng của y bị nhân viên Tòa Bạch Ốc lục soát và lấy đi nhiều thùng hồ sơ và tài liệu. Đó có thể là những tài liệu liên quan đến ma tuy và rửa tiền quan trọng nhất. Mặc dù phần lớn những tài liệu đó đã bị đốt hoặc cắt vụn tại Công ty
Rose Law Firm trong một cuộc "dọn dẹp nhà" suốt đêm, ngay cả các tay chơi cũng không nắm vững Foster giữ kín bao nhiêu thông tin được xem là "bảo hiểm cá nhân" cho y.
5. Một số liên kết của vụ đánh bom
5.1 Hồ sơ ma túy và rửa tiền chuyển về Murrah Building ở Oklahoma City
Nhiều phúc trình cho thấy rằng trong thời gian có chiến dịch buôn lậu ma túy ở Mena và vụ Iran/Contra, Sở thuế
IRS , Cơ quan
DEA (Drug Enforcement Administration), và
FBI đã điều tra vụ việc và lưu giữ hồ sơ cũng như những tường trình liên quan cho đến khi Clinton đến Washington làm tổng thống. Những hồ sơ điều tra nầy được sát nhập chung tại văn phòng Sở Tư Pháp ở Little Rock. Nhưng vì lý do "an ninh" trong bốn năm tiếp theo sau đó, những hồ sơ nầy được di chuyển đến tòa nhà
Murrah Building ở Oklahoma City, kế cận với Arkansas. Như thế, sự kiện nầy đưa thêm một tia sáng vào công việc điều tra và cho thấy rõ nét hơn động cơ của vụ đánh bom tòa nhà
Murrah Building ở Oklahoma City. Đám thủ phạm chỉ cần phá hủy tòa nhà chứa những hồ sơ đó là đủ để phi tang tất cả. Ở điểm nầy cần nói rõ vấn đề không hề được đề cập bởi truyền thông hay các cơ quan điều tra.
5.2 Những tay đánh bom chuyên nghiệp từ Iraq
Khi kết thúc Chiến Tranh Vùng Vịnh, hơn 5,000 cựu binh Iraq (phần lớn là sỹ quan) được chính quyền Mỹ vận chuyển một cách phi pháp đến quốc gia nầy vì "mục đích nhân đạo," và định cư họ trên lưng những người thọ thuế. Điều nầy đã làm xôn xao nghiêm trọng trong các tổ chức cựu chiến binh Hoa Kỳ vốn không quên sự kiện bao nhiêu cựu tù binh Mỹ đã bị chính phủ bỏ rơi trong những cuộc chiến trước đây, cùng lắm chỉ được xử dụng để làm quảng cáo trên các tập san. Một trong những địa điểm tập kết lớn nhất dành cho những cựu sỹ quan Iraq nói trên "vô tình" lại là Oklahoma City. Những thành phần nầy từng là những chuyên viên triệt hạ cơ sở (như những giếng dầu ở Kuwait) trong những địa bàn tương tự như mục tiêu đánh bom - tòa nhà
Murrah Building. Nhiều người trong số những cựu sỹ quan nầy đã gia nhập 28 tổ chức khủng bố Hamas và nhóm Hồi Giáo Jihad ngay tại Hoa Kỳ. Một trong những nhóm nầy có địa bàn tại khu vực Oklahoma City/Norman và nối kết chặt chẽ với những nhóm khác ở Dallas/Fort Worth, Houston, Miami, và New York.
5.3 Tài liệu về Hội Chứng Gulf War Syndrome và sự dính líu của chính phủ được lưu tại tòa nhà Murrah Building
Ihsan Barbouti là một người Iraq, phụ trách những hoạt động bí mật cho Saddam Hussein, từng là một kiến trúc sư trong mọi hoạt động nghiêm trọng. Y làm chủ một công ty công nghệ ở Frankfort, Đức, đã thắng được một hợp đồng trị giá $552 triệu để xây cất những sân bay ở Iraq và cũng đã thiết kế cho Moammar Khadaffi một nhà máy chế tạo vũ khí hóa học do Đức xây dựng ở Rabta, Libya. Y có trong tay khoảng $100 triệu tài sản địa ốc và trang bị khoan dầu ở Texas và Oklahoma. Barbouti về sau đầu tư vào hai công ty ở Hoa Kỳ: (i)
Pipeline Recovery Systems of Dallas, chuyên sản xuất một hóa chất chống xói mòn để bọc và bảo quản các đường ống, và (ii)
Product Ingredient Technology of Boca Raton , chuyên sản xuất ngũ vị hương. Điều quan trọng liên quan đến vụ đánh bom ở Oklahoma City là Barbouti có liên hệ mật thiết với công ty Wackenhut, và, qua trung gian của Wackenhut, có những nối kết với
CIA. Wackenhut thành lập một công ty bình phong mang tên
Meridian Arms Corporation có cơ sở tại đặc khu Da Đỏ Cabazon ở Indio, California, để sản xuất chất nổ, vũ khí hóa học, sinh học, và nhiều thứ khác. Ted Gunderson, một cựu nhân viên
FBI, cho rằng những chất nổ được xử dụng để đánh bom tòa nhà
Murrah Building có thể do công ty
Meridian sản xuất theo thiết kế của Michael Riconosciuto được đề cập bên trên. Riêng về phần Barbouti, y cũng có một nhà máy sản xuất hóa chất ở Florida, và một trong những chuyên viên an ninh mà nhà máy nầy thuê mướn chính là Peter Kawaja, một cựu nhân viên
FBI. Về sau Kawaja cho biết những vũ khí hoa học và sinh học đã được chở đến Iraq từ trước Cuộc Chiến Vùng Vịnh và nhiều vũ khí nầy đã được xử dụng nhắm vào binh sỹ Hoa Kỳ và đồng minh. Kawaja nói thêm rằng hàng ngàn tài liệu liên quan đến các trường hợp Hội Chứng
Gulf War Syndrome đã được chuyển từ Houston, Texas, đến tòa nhà
Murrah Building gọi là để "bảo quản an toàn." Những tài liệu nầy nêu rõ sự dính líu của chính phủ trong việc sản xuất và vận chuyển cũng như những hậu họa nhiễm độc. Như thế những hồ sơ ma túy, rửa tiền và Hội chứng Chiến Tranh Vùng Vịnh được tập trung tại
Murrah Building vì một lý do nghiêm trọng hơn là "bảo quản an toàn." Theo những nguồn tin liên bang, những hồ sơ đó đã bị thiêu hủy trong vụ đánh bom.
6. Ném đá giấu tay: Mossad, CIA, Do Thái, Clinton
6.1 Andreus Strassmeir và sự đồng lõa của Sở Di Trú INS
Trong quá trình điều tra, người ta thấy hiện lên thông tin cho thấy McVeigh đã gọi điện thoại ít nhất hai lần đến một cộng đồng giáo phái mang tên
Elohim City ở biên giới giữa Arkansas và Oklahoma. Nội dung của những hồ sơ đó như sau:
McVeigh đã gặp một thành viên của cộng đồng nầy trong một cuộc triển lãm súng ở Tulsa. Thành viên nầy là một người Đức tên là Andreus Strassmeir. Người nầy là một nhân vật đặc biệt, đã vào được Hoa Kỳ, không có chỗ ở, không có phương tiện sinh nhai nhưng vẫn sống được ở đây bốn năm với một chiếu kháng chỉ có giá trị 6 tháng mà không bị Sở Di Trú hạch hỏi. Đương nhiên các cơ quan liên bang đều biết sự có mặt của Strassmeir nhưng không muốn bắt y hay trục xuất y.
Strassmeir làm "sỹ quan an ninh" cho
Elohim City, một cộng đồng giáo phái (covenant community) do Robert Millar sáng lập, thu nhận những người cơ đốc ly khai và những ai khác muốn gia nhập cộng đồng với tín ngưỡng không mâu thuẫn với tín ngưỡng của chính họ. Trong quá khứ, những ai không thích hợp với giáo điều của họ đều bị khai trừ khỏi cộng đồng. Tuy nhiên cộng đồng nầy đã trở nên mục tiêu theo dõi chặt chẽ theo như dưới đây.
6.2 Mossad, Andreus Strassmeir, và McVeigh
Strassmeir sống nhờ một thẻ tín dụng trong suốt bốn năm nhưng lại không chi trả một khoản tiền nào cả. Y là con trai của Gunther Strassmeir, phụ tá ngoại trưởng Đức dưới thời Helmut Kohl. Y cũng được báo cáo là một thành viên của
GSG-9, một tổ chức được Do Thái huấn luyện và là đơn vị cảnh sát chống khủng bố được thành lập sau vụ thảm sát Munich. Y cũng đã từng phục vụ trong quân đội Đức với quân hàm trung úy làm việc cho cơ quan tình báo. Strassmeir được báo cáo đến Hoa Kỳ để thâm nhập các nhóm
neo-Nazi và
White Supremacist (kể cả
KKK , cũng là đối tượng của
Mossad và ADL – Anti-defamation League – một tổ chức Do Thái Quốc Tế). Strassmeir tiến hành hoạt động nầy bằng cách xử dụng những liên hệ
neo-Nazi ở Đức để "giới thiệu" y với những thủ lãnh trong phong trào
White Aryan Resistance (WAR). Không ai rõ sự nối kết được thực hiện ra sao với
Elohim City, nhưng cuối cùng y đã thâm nhập được tổ chức nầy và được xem như một chuyên viên quân sự và vũ khí. Vói tư cách đó, y đã thuyết phục những thành viên của cộng đồng nầy thành lập một đội dân quân (militia) để tự vệ, đổi súng săn lấy vũ khí quân đội. Sau đó y đã dạy cho họ võ thuật, chiến thuật và tác xạ. Bấy giờ lãnh đạo thực sự của cộng đồng nầy là James Ellison, cựu giáo chủ của giáo phái
Covenant, Sword and Arm of the Lord (CSA). Ellison đã đứng ra làm chứng buộc tội Richard Wayne Snell, lãnh tụ chính, và 13 người bị nói là những thành viên
White Supremacist bị đưa ra tòa về tội xách động và giết chết một binh sỹ tiểu bang Arkansas vào năm 1988. Richard Snell bị hành quyết ngày 19/4/1995, cùng ngày với vụ đánh bom tòa nhà
Murrah Building. Ellison cưới đứa con gái 14 tuổi của Miller và chính thức nắm quyền kiểm soát cộng đồng, xử dụng Strassmeir là "trưởng ban an ninh." Cũng nên ghi nhận ở điểm nầy rằng Ellison và Snell đều đưa ra tuyên bố vào năm 1984 rằng họ đã hoạch định cho nổ tòa nhà
Murrah Building.
Strassmeir rời khỏi Hoa Kỳ khảng 8 tuần sau khi xảy ra vụ đánh bom tòa nhà
Murrah Building ở Oklahoma City và ngay sau khi cơ quan điều tra phát hiện McVeigh đã liên lạc bằng điện thoại với Elohim City để gặp Andy Strassmeir. Theo thông tin nhận được ngày 27/1/1996, McVeigh có tiếp xúc với Strassmeir. Sự móc nối giữa McVeigh, Strassmeir, và
GSG-9 nay đã trở thành hiển nhiên.
7. Ai hưởng lợi từ vụ đánh bom?
7.1 Đạo Luật Anti-Terrorist Legislation
Ngay sau vụ đánh bom vào tòa nhà
Murrah Building ở Oklahoma City liền trỗi dậy trở lại Dự Luật
Foreign and Domestic Terrorism Prevention Act vốn đang ngủ yên trước đó. Dự luật nầy gia tăng quyền hạn của các cơ quan liên bang trong việc thám sát, theo dõi những nhóm bán quân sự (paramilitary groups) và bắt giam vô số người vì những tội bị gán ghép. Cỗ xúy cho dự luật nầy là những tổ chức có cơ may vận dụng được nó một khi nó trở thành luật – như
ADL (Anti-defamation League của Do Thái) và
SPLC (Southern Poverty Law Center cũng của Do Thái) nhằm mục đích theo dõi, sách nhiễu hay tấn công bất kỳ nhóm đối lập nào mà họ có thể dùng truyền thông để gán cho tội khủng bố. Dự Luật đó cũng tạo ra một hệ thống cảnh sát quốc gia bằng cách tăng thêm quyền hành cho các cơ quan công lực liên bang, do đó sễ gia tăng số lượng nhân viên và ngân sách hằng năm. Dự Luật
Anti-Terrorist Legislation còn là một âm mưu giải giới giai cấp trung lưu để Do Thái sớm thực hiện giấc mộng nô lệ hóa nhân loại và sớm tiến đến cái mệnh danh là
New World Order dưới quyền cai trị của hệ thống
Illuminati của Do Thái.
7.2 Cơ hội vu khống cánh hữu
Sau vụ đánh bom, các nhóm chính trị cánh hữu bị truyền thông Do Thái "chiếu cố" gay gắt trong một thời gian dài, và thận chí còn bị Tiểu Ban Quốc Hội điều tra đễ xác định họ có phải là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia hay không. Như thế không một nhóm cánh hữu nào hưởng lợi từ vụ đánh bom, ngược lại thì đúng hơn. Cũng không một nhóm cánh hữu nào dính líu đến biến cố đó cả, bất chấp những luận điệu của truyền thông nhà nước và các nhóm quyền lợi đặc thù.
7.3 Các tổ chức buôn lậu ma túy và rửa tiền
Nếu những hồ sơ buôn lậu ma túy và rửa tiền được chuyển từ Little Rock sang tòa nhà
Murrah Building thì kế hoạch đó rõ ràng có lợi cho những ai sắp bị Quốc Hội điều tra trong những tháng sau đó (từ tháng 5 đến tháng 6/1995): họ sẽ dễ dàng hơn trong việc thiêu hủy, cướp đoạt hay di chuyển những hố sơ đó đi chỗ khác chờ dịp thiêu hủy. Nếu những hồ sơ nêu trên liên quan đến quan liêu của Arkansas và những công ty quốc tế cấu kết với những hoạt động bán quân sự như Iran/Contra và buôn lậu ma túy quốc tế, trước kia cũng như bấy giờ, thì âm mưu thiêu hủy các hồ sơ nói trên là đương nhiên.
7.4 Các tổ chức chính trị thiên tả
Từ tháng 11/1994, sau khi quyền hành trong Quốc Hội chuyển từ Cánh Tả sang Cánh Hữu, cuộc tấn công vào Hiệp Hội
NRA (National rifle Association), Liên Hiệp Cơ Đốc (Christian Coalition) và những nhóm bảo thủ khác đã giảm bớt cường độ đáng kể trong nghị trình so với trước. Nhưng lập tức sau vụ đánh bom, cuộc tấn công nầy phục hồi trở lại.
7.5 Dập tắt những vụ điều tra tội ác nghiêm trọng
Theo nghị trình, 4 tuần sau ngày 19/4/ 1995 (ngày xảy ra vụ đánh bom), Quốc Hội lý ra sẽ bắt đầu điều tra những nghi án trong các vụ
Whitewater, Waco, Ruby Ridge, Mena, ATF conduct , và cái chết của Vincent Foster. Thay vì thế, vì xảy ra vụ đánh bom, Quốc Hội đã chuyển hướng sang những "vấn đề bức thiết hơn."
8. Kết luận
- Đối với cơ quan điều tra, nếu không có ai trợ giúp thì McVeigh và Nichols tự mình không thể nào hoạch định, cung ứng phương tiện và tài chánh cũng như thi hành vụ đánh bom. Các chuyên viên chất nổ và những nhà điều tra chuyên nghiệp đã viết rất nhiều và khẳng định rằng chỉ một xe tải với vỏn vẹn 4600 cân hợp chất
ammonium nitrate không thôi thì không thể có sức tàn phá khủng khiếp và hữu hiệu như thế.
- Không ai biết gì về những hoạt động của McVeigh từ khi y rời quân đội vào năm 1992. Rất có thể y đã "lọt mắt xanh" của một kẻ "tuyển mộ" nào đó trong khi y phục vụ trong Cuộc Chiến Vùng Vịnh hay sau đó và vì thế y đã được tuyển vào cộng đồng tình báo bí mật.
- Chung quy, cho dù đó là một hoạt động bí mật nhằm thiêu hủy những hồ sơ và khích động dân chúng hay một cuộc tấn công của bọn khủng bố Hồi Giáo Jihad hay cả hai, kết luận vẫn là: có sự dính líu của những bàn tay khác, cao hơn là McVeigh và Nichols.
- Những liên kết đến các tổ chức cánh hữu như
Right Wing, Christian, Constitutionalist, Militia, Patriot, NRA, Conservative, và những nhóm khác – ngoại trừ những quan hệ với
WAR (White Aryan Resistance) và
Elohim City/Strassmeir - không cho thấy một cái gì cụ thể liên quan đến vụ đánh bom. Do đó, không thể kết luận một cách hồ đồ như Wikipedia, cho rằng nhóm McVeigh và Nichols đã đánh bom tòa nhà
Murrah Building vì công phẫn trước lối hành xử của chính phủ liên bang vào năm 1992 trong các vụ
Randy Weaver ở Ruby Ridge cũng như vụ bao vây ở
Waco, Texas. Một lần nữa ở đây, phiên bản Wikipedia là bằng chứng cho thấy quy mô truyền thông ngu dân, bưng bít, và bịp bợm trơ trẽn do bọn Do Thái tiến hành. Những phiên bản nhà nước nầy được tích lũy từ thập niên nầy qua thập niên khác để tạo thành hội chứng Do Thái rất tương tự với hội chứng cộng sản: hội chứng ăn gian nói dối. Bất hạnh thay phần lớn người Mỹ và thế giới vẫn cứ tin đó là sự thật! Đó cũng là lý do tại sao Do Thái và truyền thông Do Thái trị xem phần còn lại của nhân loại như một nhà trẻ lên ba.
(.........................................)
-
Đỉnh Sóng
Kích thước tài liệu vượt quá giới hạn kỹ thuật của trang. Xin vui lòng tìm đọc toàn bộ nội dung trong tác phẩm
MẶT TRÁI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HOA KỲ - Đông Yên
Đã phát hành trên
(Amazon.com - ISBN: 9781495810121). Phiên bản bìa mềm có thể đặt mua với
(I) Đỉnh Sóng P.O. Box 8231 Fountain Valley, CA 92728 - (714) 473-3691 -
dinh-song@att.net
(II) Nhà sách Tự Lực và các nhà sách VN tại Mỹ
ĐT: (714) 531-5290 ** Email:
buybooks@tuluc.com
Tu Luc Website:
buybooks@tuluc.comucmall.com/HomePage/HomePage.aspx