1. Phiên bản "nhà nước" – Wikipedia
Wikipedia, trang mạng nồng cốt của Do Thái, và truyền thông "nhà nước," nói chung, gọi biến cố ở Waco, Texas, từ ngày 28/2/1993 đến ngày 19/4/1993 là cuộc bao vây Waco (Waco Siege). Đó là cuộc bao vây cơ sở của giáo phái
Branch Davidians do lực lượng cảnh sát và quân đội Liên Bang và Tiểu Bang Texas thực hiện, kéo dài 51 ngày.
Branch Davidians là một chi phái đã ly khai khỏi Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-day Adventist Church) . Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm là một giáo phái Tin Lành thuộc phong trào Phục lâm có tên chính thức là Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật (Cơ Đốc nghĩa là Đấng Christ; Phục Lâm là lại đến; An là nghỉ ngơi; Thất Nhật là ngày Thứ Bảy). Như vậy, tên gọi của giáo hội này đã thể hiện niềm tin chủ yếu của họ là Chúa Giê-xu sẽ tái lâm bất chợt và tín đồ phải nghỉ ngơi vào ngày Thứ Bảy - là ngày
Sabbath của Do Thái giáo - để thờ phượng Thiên Chúa, thay vì ngày Chủ Nhật như hầu hết các nhánh, hệ phái Kitô giáo khác. Một số hệ phái Kitô giáo cho rằng giáo lý của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm thể hiện một số quan điểm phi chính thống.
Branch Davidians do David Koresh lãnh đạo và sinh hoạt tại trại
Mount Carmel Center, Texas.
- Theo
Wikipedia, giáo phái nầy bị nghi ngờ vi phạm luật lệ vũ khí và Cơ Quan
Bureau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives (ATF)x được lệnh khám xét và bắt giam. Khi
ATF hành quân lần đầu, cuộc chạm súng xảy ra và có bốn nhân viên công lực và sáu tín đồ
Branch Davidians chết. Do đó Cơ Quan
FBI đã tiến hành cuộc bao vây 51 ngày. Cuối cùng FBI đã mở cuộc tấn công bằng hơi cay để buộc các tín đồ ra ngoài. Trong khi lửa tràn ngập
Mount Carmel Center, có 76 tín đồ chết, kể cả David Koresh.
Wikipedia cũng mập mờ cho thấy đó là hậu quả của một cuộc tự sát tập thể (mass suicide).
- Mặc dù
Wikipedia không tự mình đưa ra những nhận định tiêu cực về David Koresh, trên tổng thể, bài viết của họ cho độc giả thấy một hình ảnh vô cúng tiêu cực và xấu xa, phần lớn dựa trên những nguồn không được kiểm chứng về độ tin cậy, trong đó có một tờ báo mang tên
Waco Tribune-Herald.
- Tên thực của Koresh là Vernon Howell. Bài viết cho biết rằng, vào ngày 15/5/1990, Howell đã nộp đơn xin Tòa Thượng Thấm California đổi tên thành David Koresh, và việc đổi tên đã được chấp thuận ngày 20/8/1990. Chi tiết nầy rất quan trọng như độc giả sẽ thấy dưới đây.
2. Phiên bản Texe Marrs
2.1 David Koresh: King David
Trong
Conspiracy Worldvừa nêu trên của Texe Marrs, tác giả cho rằng cuộc tấn công của
ATF nhắm vào Koresh và những tín đồ vô tội của ông được thực hiện không phải vì một bất kỳ tội ác nào mà David Koresh hay những người khác đã phạm phải, mà chính vì Koresh đã dám tuyên bố rằng ông ta là Vua của Do Thái (the King of the Jews) – tức là King David. Thế thì việc đổi tên thành David Koresh không phải là một ngẫu nhiên khi tên
DAVID cũng chính là tên của
KING DAVID. Đám lãnh đạo của những tổ chức quyền thế của Do Thái đã công phẫn về những rao giảng của Koresh cho rằng ông ta là King David mới. Đám nầy có quan hệ chặt chẽ với hai vợ chồng Clinton,
ATF, và
FBI; và năm 1993 là năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Bill Clinton. Đám lãnh đạo Do Thái đó đã được cơ quan tình báo
Mossad của Israel cho biết rằng Koresh đã có mặt ở Jerusalem nhiều tháng để tìm cách tuyển mộ người Israel vào giáo phái xem như Do Thái Giáo của ông. Và họ càng nỗi giận khi được các mật báo viên cho biết Koresh và những tín đồ của ông treo cờ David có ngôi sao Israel tại tư gia và nhà thờ ở Waco.
Theo Texe Marrs, những chuyên viên
lobby Do Thái liên lạc ngay với tay trong của họ ở Tòa Bạch Ốc là Hillary Rodham Clinton. Chính Hillary cũng là Do Thái – theo
Forward, một tờ báo có ảnh hưởng của Do Thái, số tháng 8/19999, Della Rosenberg, bà nội của Hillary, nói chuyện với Hillary bằng tiếng
Yiddish khi Hillary còn bé. Hillary lập tức lên kế hoạch, trước tiên làm việc qua các bộ hạ của
ATF trong Bộ Tài Chánh, sau đó qua tên bù nhìn của bà trong Bộ Tư Pháp là Web Hubbell, thứ trưởng thối nát của Janet Reno. Phàn cuối của bài viết nầy sẽ nới rõ hơn về Janet Reno nầy.
2.2 Hillary Clinton: Lệnh xé xác
Cũng theo Texe Marrs, lúc đầu, chủ trương của âm mưu nầy là xử dụng vũ lực, hoàn toàn bằng hỏa lực của trực thăng trong một cuộc tân công bất thần nhắm vào
Branch Davidians. Âm mưu nầy thất bại.
Hillary và những phụ tá phù thủy của bà ta sau đó thiết kế một âm mưu quỹ quyệt hơn. Họ bao vây cơ sở
Branch Davidians, nhằm dễ bề cách ly các nhà báo tự do khoảng ba dặm. Sau đó, đúng vào ngày thứ 51 của cuộc bao vây (5+1 6: 6, 66, 666 là những con số ma thuật tượng trưng cho ác quỷ của
Illuminati) – rơi vào ngày 19/4, ngày đầu của Lễ Hội
High Holy Days của các phù thủy – đàn ông, đàn bà, và trẻ con bên trong địa điểm bị bao vây sẽ được đưa vào hỏa lò như là những vật tế thần vô tội, đốt cháy, dâng cho thần sừng
Pan của các phù thủy, các thần mà những tên tà đạo cổ xưa thường gọi là
Marduk hay
Malek, và dâng cho nữ thần phù thủy
Hecate, cũng được sùng bái như thần
Athena.
Sau 51 ngày hành hạ theo nhiều kiểu khác nhau, và trong những giờ nhận lệnh giận dữ của Hillary Clinton,
“Torch the mother f....rs. Do it today!” (Thui chết mẹ chúng nó. Thui ngay hôm nay!), những tên sát thủ
FBI mạo danh là
"hostage rescue team" (toán giải cưu con tin) và những tên lưu manh
"Nightstalkers" của lực lượng
Delta Force đeo mặt nạ chống hơi cay, súng ống, trang bị chống bạo động, bôi mặt đen, và chuẩn bị tấn công mục tiêu. Tuy nhiên, trước tiên, họ ném vào những tràng ống hơi ngạc
CS để làm tê liệt các mục tiêu.
Tác giả viết tiếp, cái được mệnh danh là tiểu đoàn chống khủng bố sau đó xông vào phía sau của khu dân cư, mang theo súng máy, súng
laser và nhưng vũ khí tối tân theo kiểu
Star War. Một nhân viên đặc biệt bạo động và khát máu mang theo một cây kiếm thật lớn và bén, mà y dự định xử dụng để chặt đầu và tay chân của nạn nhân. Khi rút lui khỏi cứ điểm, sau khi đã tàn sát không biết bao nhiêu người, bước kế tiếp là thi hành lệnh của Hillary – "Torch the whole complex and leave it in ashes" (Thiu rụi toàn bộ cơ sở thành tro) – chỉ chừa lại đất đá. Sau khi xe tăng và quân xa đâm thũng những lỗ trên những tường nhà đề cho
oxygen và không khí ùa vào làm cho lửa bốc nhanh hơn – hàng chục quả lựu đạn lửa được tung vào. Những tiếng nổ làm rung chuyển những tòa nhà khi lựu đạn phóng hỏa liên tục.
Về sau những người sống sot bị đưa ra tòa và bị buộc những tội mà họ không hề phạm, bị buộc tội bởi những công tô viên thối nát của Bộ Tư Pháp Tam Điểm Cộng Sản và bởi một toà án cuội, điều hành bởi một thẩm phán liên bang có đẳng cấp thứ 33 của Hội Tam Điểm Cộng Sản – Đó không ai khác là Janet Reno, Bộ Trưởng Tư Pháp của Bill Clinton, sẽ được đề cập đến nhiều hơn ở phần cuối bài viết nầy.
3. Phiên bản Johnny Cirucci
3.1 Chống đối? Tiêu diệt! ""
Trong
"Illuminati Unmasked: Everything you need to know about the New World Order and How to Beat It" Johnny Cirucci đưa ra những chi tiết tương tự liên quan đến diễn tiến của cuộc bao vây và thảm sát. Cũng như Texe Marrs trong
"Conspiracy World," Johnny Cirucci dứt khoát không xem đó là một vụ tự sát tập thể như truyền thông "nhà nước" tuyên truyền. Cũng như Texe Marrs, Cirucci cho thấy có một số nạn nhân thoát được hỏa ngục để chạy ra ngoài nhưng phần lớn đều bị
FBI bắn chết, một số ít khác bị bắt và bị xiềng tay. Về sau số nầy bị buộc nhiều tội khác nhau nhưng cuối cùng đã được trắng án.
Theo Cirucci, sự kiện Chi hệ
Branch Davidians ly khai với giáo phái
Seventh-day Adventist Church, một giáo phái thân Do Thái, khiến
Illuminati và vợ chồng Clinton thực sự quan ngại. Không những thế,
Branch Davidians thuộc số nhũng thành phần chỉ trích chinh phủ Liên Bang quyết liệt và gay gắt nhất. Do đó, thông qua
CIA, FBI, và
ATF, âm mưu
Illuminati và Clintons đã dàn dựng chuyện tàn trữ vũ khí bất hợp pháp để tiêu diệt chi hệ nầy.
3.2 Illuminati khủng bố Hoa Kỳ và thế giới
Thực ra
Waco không phải là một biến cố lẽ loi mà chỉ là một mắt xích trong vô số những mắt xích do
Illuminati đạo diễn: vụ tàn sát Ruby Ridge ở Idaho, đánh bom Tòa Tháp Đôi, đánh bom ở Oklahoma City, khủng bố 9/11, bom tự sát ở Luân Đôn, tấn công Tòa Đại Sứ Mỹ ở Benghazi, Libya, tấn công tòa soạn báo
Charlie Hebdo ở Paris, những vụ nổ súng giết chết hàng loạt học sinh trong các trường học, giết chết hàng loạt người vô tội trong các rạp hát và tụ tập công cộng, chủng ngừa, bão lụt nhân tạo, động đất nhân tạo, thay đổi thời tiết nhân tạo,
bird flu, ebola, fluoride trong nước...Ngay cả
Al Qaeda và
ISIS cũng là những công cụ khủng bố của
Illuminati. Như thế, theo Cirucci,
Illuminati đã gián tiếp hoặc trực tiếp khủng bố Hoa Kỳ và thế giới.
3.3 Gun control và những âm mưu khác
Những vụ "khủng bố" đó nhắm vào nhiều mục tiêu khác nhau nhưng cùng phục vụ một âm mưu, đó là
New World Order của
Illuminati. Cụ thể, Do Thái chủ trương (i) kích động lòng căm thù Hồi Giáo và thu phục thiện cảm đối với Israel, (ii) gieo rắc sợ hãi để hy vọng nhân loại sẽ van xin
Illuminati sớm thiết lập một loại trật tự thế giới mới không cần biết ai sẽ cai trị thế giới mới đó, (iii) biện minh "cuộc chiến chống khủng bố," một cuộc chiến được tiến hành trên lưng người dân Hoa Kỳ và phần lớn nhằm chống lại chính người dân Hoa Kỳ hơn là chống khủng bố đích thực. Đó còn là một thủ đoạn nham hiểm nhằm từng bước thuần hóa và khuất phục nhân loại: không gì xúc phạm hơn khi những công dân lương thiện phải đưa hai tay lên trời cho bọn an ninh phi trường tự do sờ mó một cách hống hách, (iv) Trói chân quân đội Mỹ ở Trung Đông như là một đội quân đánh thuê cho Israel, (v) từng bước hạn chế và tiêu diệt chủ nghĩa tự do dân chủ để cuối cùng thiết lập chế độ toàn trị trên hành tinh với sự đồng lõa của các chế độ Cộng Sản, (vi) Triệt hạ những thành phần xã hội bị Do Thái nghi ngờ là đối kháng, kể cả Cố Tổng Thống John F. Kennedy, Tường George Patton và Bộ Trưởng Quốc Phòng James Forrestal, (vii) giải giới gia cấp trung lưu và những thành phần mà Do Thái nghi ngờ là chống đối. Đó là nỗi lo sợ cố hữu của những chủ nghĩa toàn trị, vì bạo động xã hội sớm muộn gì cũng sẽ đến.
Illuminati đã và đang xử dụng bọn tay sai tiến hành những vụ
"khủng bố" để chuẩn bị dư luận và tiến đến chiêu bài
"gun control." Nhưng ở điểm nầy,
Illuminati sẽ đương đầu với những xung đột quyền lợi trong kỹ nghệ vũ khí và đám tài phiệt cá mập sản xuất vũ khí. Chúng ta cứ chờ xem trận thư hùng khốc liệt nầy sẽ diễn ra thế nào; (viii) điều kiện hóa và nô lệ hóa phần còn lại của thế giới...
3.4 Âm mưu Mind Control của Illuminati
Đó là âm mưu thử nghiệm chương trình
"Mind control" (Xin tạm dịch là điều khiển não bộ). Âm mưu nầy lần đầu được biết đến qua tác phẩm tự truyện
Trance Formation of America của Cathleen Ann O’Brien, một phụ nữ ở Michigan. Trong tác phẩm nầy tác giả lớn tiếng tố cáo đã bị người cha của bà đem bán làm nô lệ tình dục và đã bị tra tấn để trở thành một người máy tình dục cho những người quyền thế nhất nước Mỹ trong thập niên 80 và 90. O’Brien cho biết trường hợp của bà không phải ngẫu nhiên mà nằm trong khuôn khổ những dự án của
CIA. Bà cho biết, trong những đợt thử nghiệm
mind control, bà bị rối loạn danh tánh (dissociative identity disorder) – nghĩa là tự thấy mình biến thành nhiều nhân vật khác nhau. Một trong những nhân vật đó có được một trí nhớ về hình ảnh (photographic memory) và có thể nhớ lại mọi cuộc nói chuyện đã xảy ra trước mặt mình trong suốt những năm bị giam cầm và lạm dụng. Bà nói rằng trong số những người làm tình làm tội bà có George H.W. Bush, Gerald Ford, Jimmy Carter, Dick Cheney, và Hillary Clinton. Bà nói rằng bà đã được giải cứu vào năm 1988 bởi một người đàn ông tên là Mark Phillips, tự xưng là một cựu nhân viên
CIA. Một phần của cuốn tự truyện cho biết Kelly, người con gái của bà, cũng là một nạn nhân của chương trình
mind control. Điều khiến một số người tin vào những cáo buộc của O’Brien là sự kiện những chương trình
mind control như
MK-ULTRA có thực và đã bị phơi bày. Những mục tiêu của những thử nghiệm như thế là để tạo ra những nô lệ với não bộ bị điều khiển như máy móc – những nô lệ được gọi là những
Manchurian Candidates, có thể tự nguyện chấp nhận và thi hành bất kỳ mệnh lệnh nào được giao phó không cần biết mệnh lệnh đó là gì. Có những tài liệu chính thức đã được giải mã cho thấy những thử nghiệm ghê tởm đó là gì và cho thấy một số nạn nhân đã được bồi thường tài chánh để tránh tranh tụng về những lạm dụng đã khứng chịu. Do đó một số người tin rằng Cathy O’Brien cũng có thể là nạn chân của một trong những chương trình như thế.
Trong một cuộc họp báo, chính Bill Clinton đã công khai thú nhận,
"Hàng ngàn cuộc thử nghiệm do chính phủ đỡ đầu đã được thực hiện, ở các bệnh viện, đại học, và những căn cứ quân sự khắp nước. Một số được xem là vô đạo đức, không những theo tiêu chuẩn của ngày nay, mà theo những tiêu chuẩn của thời kỳ mà chúng đã được thực hiện."
4. Phiên bản Paul Wilcher
4.1 Tội ác của Bill Clinton và Janet Reno, Bộ Trưởng Tư pháp
Phiên bản nầy xem toàn bộ kịch bản Waco như là một thử nghiệm âm mưu
Mind Controlcủa hệ thống
Illuminati Do Thái. Bên dưới là một đoạn trích từ một bản báo cáo được đăng trên trang mạng
The Truth Seeker do luật sư Paul Wilcher soạn thảo, dựa trên lời khai trực tiếp của các nhân chứng. Những thành viên của chính toán biệt kích được đề cập trong bản báo cáo đã tiếp xúc với Paul Wilcher, thông qua một thành phần thứ ba. Họ sẵn sàng cung khai sau khi được bảo đảm sẽ được miễn tố. Mặc dù những nhân chứng nầy là những kẻ giết người chuyên nghiệp đanh thép, nhưng những gì họ đã được lệnh làm và thực sự làm ở Waco đã làm họ nao núng sâu sắc. Ngày 21/5/1993, Wilcher đi trình bản báo cáo Janet Reno, Bộ Trưởng Tư Pháp của Bill Clinton. Ngày 23/6/1993, người ta phát hiện xác của Wilcher đã thối rữa nghiêm trọng trong căn phòng của ông. Đến đây tưởng như mọi chuyện đã chấm dứt, nhưng ... trước khi chết Wilcher đã trao một bản sao của bản báo cáo dày 100 trang cho Sara McClendon, một phóng viên kỳ cựu của Tòa Bạch Ốc.
Wilcher đã phạm một sai lầm sinh tử là cả tin Janet Reno và Bill Clinton. Sai lầm đó được trả giá bằng cái chết của ông. Paul Wilcher không ngờ rằng Janet Reno là thành viên cấp 33 của Hội Tam Điểm (Freemasonry), một tổ chức khác của
Illuminati và Cộng Sản.
Vào giữa năm 1999, bản báo cáo xuất hiện trở lại, thế là tất cả bốn thành viên trong toán xung kích thuộc lực lượng
Delta Force của
FBI có dính líu trong vụ thảm sát Waco đều bị chết và được nói là "do tai nạn huấn luyện." Sở dĩ bốn thành viên nầy sống sót lâu đến thế là nhờ danh tánh của họ không được nêu ra trong bản báo cáo của Wilcher. Khi bốn người nầy chết thì cung khai của họ sẽ vĩnh viễn im hơi.
4.2 Bản báo cáo của Paul Wilcher
(...) "Theo thông tin tôi nhận được, sau đây là những gì thực sự đã xảy ra ở Waco:
(1) Vào chiều/tối ngày 18/4 (1993) – ngay sau khi ngài hội kiến với Tổng Thống Clinton – người ta đã gọi điện thoại và Bệnh Viện
Parkland Hospital ở Dallas (chính cái bệnh viện đã nhận Tổng Thống John F. Kennedy sau khi ông bị ám sát ngày 22/11/1963 – lại cũng do bàn tay của những sát thủ chuyên nghiệp của
CIA). Những người gọi báo cho bệnh viện phải chuẩn bị nhận một số lượng lớn những người bị phỏng nặng từ Waco ngày hôm sau.
(2) Sáng ngày 19/4 toán biệt kích thuộc lực lượng
Delta Force - thực sự là những sát thủ chuyên nghiệp hàng đầu của
CIA. Toán nầy được bố trí sẽ thi hành một kế hoạch mệnh danh là
"penultimate plan" khi kế hoạch nầy được chấp thuận. Họ được bố trí tại mục tiêu ở Waco để thi hành mọi phương diện của cuộc hành quân "ướt" (wet operation) trong ngày Thứ Hai đó.
(3) Cuộc thảm sát tập thể nầy (mass murder) sau đó được ém nhẹm và được dàn dựng cho có vẻ như một vụ "tự sát tập thể" (mass suicide) – giống như vụ thảm sát Jonestown (Jonestown Massacre) tháng 11/1978 ở Guyana – kéo theo hết trò nói dối nầy đến trò nói dối khác. Cả hai vụ Jonestown và Waco đều là những vụ thảm sát tập thể
Mass Murder do
CIA thực hiện, chứ không phải là
Mass Suicide, (nghĩa là đều thuộc kế hoạch thử nghiệm âm mưu
Mind control.
(4)
Delta Force gồm có 15 người cả thảy, do một Trung Tá chi huy – một sỹ quan liên lạc của
CIA. Nhóm nầy bay đến Texas trên chiếc phi cơ vận tải
C-130, đáp xuống và đậu lại tại phi trường Waco hay Dallas suốt ngày, sau đó cất cánh khi "công tác nhơ bẩn (dirty work)" đã hoàn thành.
(5) Trong nhóm 15 người nầy có hai (2) toán hành quân nhỏ hơn: (i) Nhóm bốn người sẽ thực sự đột nhập vào bên trong mục tiêu, như được mô tả dưới đây, và (ii) Một nhóm trừ bị, dường như chưa hề được xử dụng.
(6) Toán bốn người nầy mặc toàn đồ đen – quần áo đen, giày đen, áo khoát đen, mặt mạ hơi độc đen, găng tay đen – rất thích hợp cho một cuộc hành quân đen hay hành quân ướt (black or wet operation). Họ ăn mặc như thế để người ta lầm tưởng đó là những sỹ quan
FBI dưới đất – thậm chí họ còn mang cả phù hiệu
FBI trên áo khoát. Do đó những người quan sát bên ngoài khó lòng phân biệt họ với các sỹ quan Liên Bang khác tại địa bàn lúc bấy giờ.
(7) Sáng hôm đó cả nước nhìn lên TV trong khi
FBI dùng xe tăng
M1-A1 để chọc thũng những bờ tường chung quanh những nơi cư ngụ của cơ sở. Về sau chúng ta được nói rằng, trong khi chọc thũng những bờ tường, những xe tăng cũng bắn rất nhiều loại hơi cay cực mạnh vào bên trong.
(8) Loại hơi cay nầy được chế tạo để chống bạo động – nghĩa là rất mạnh và cay mắt nên ngay cả ngoài trời người ta cũng phải chạy tránh chỗ khác để thở được.
(9) Bây giờ hơi đó được dùng bên trong một phòng kín với 95 người vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con bị vây trong đó. Theo luận lý người ta có thể giải thích rằng tất cả 95 người nầy lẽ ra đã có thể chạy ra ngoài lập tức – chỉ để thở thôi. Nhưng lạ thay, không một ai đã thực sự thoát ra – mặc dù hơi cay đã bắn vào với số lượng lớn trong suốt vài giờ.
(10) Câu hỏi luận lý được đặt ra là: Tại sao? Tại sao không một ai trong số 95 người vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con nầy – nhất là đàn bà và trẻ con – lại không lập tức thoát ra để thở bên ngoài? Truyền thông "nhà nước" và các phát ngôn viên chính thức của
FBI trả lời rằng David Koresh và những tín đồ của ông đã tích trữ những mặt nạ chống hơi cay và đã xử dụng những mặt nạ nầy.
(11) Tuy nhiên, sự thật thì thảm khốc hơn và tàn bạo hơn nhiều: hơi cay (tear gas), dù đã cực mạnh và nguy hiểm lắm rồi, chỉ là cái hình thức bê ngoài cho một hóa chát khác thực sự tác động được bắn vào bên trong tòa nhà. Hóa chất thực sự được bắn vào bên trong tòa nhà là một chất tê liệt thần kinh (nerve reagent / neuro toxin / nerve gas), một chất độc nguy hiểm giống như nhựa độc
curare của người Da Đỏ, có tác dụng làm tê liệt tức khắc 95 người vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con bên trong, và khiến họ mất hết khả năng tự vệ. Có chín (9) người về sau được cứu sống như David Thibideaux; bấy giờ họ đang ở trên tầng nhì và tầng ba với những cửa sổ mở ra hai bên, nhờ vậy họ thoát được hậu quả chết người của hơi độc tổng hợp. Tất cả những người khác không còn khả năng cử động bắp thịt, chỉ để đứng dậy thôi, đừng nói đến chuyện chạy thoát ra ngoài để thở, dù chỉ cách vài bước.
4.3 Âm mưu Mind control được khẳng định một lần nữa
Thưa Bà Bộ Trưởng Reno, đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Đó có nghĩa là ở đây quân đội Hoa Kỳ,
FBI, và Bộ Tư Pháp – do
CIA điều khiển - đã xử dụng hơi độc thần kinh trên những người đàn ông, đàn bà, và trẻ con vô tội trong nền văn minh của chúng ta – và sau đó lạnh lùng thảm sát họ. Điều nầy rõ ràng thuộc về tội ác chiến tranh đối với thường dân trong thời bình, một vi phạm nhân quyền khôn tả xiết. Và tội ác đó đã phạm phải bởi một cơ quan tình báo của chúng ta, chống lại những đàn ông, đàn bà, và trẻ con vô tội – chỉ để ém nhẹm sự thật liên quan đến thảo trình
Mind Control đầy tội ác của
CIA nhằm sản tạo những sát thủ người máy theo kiểu
“Manchurian Candidate” của Cộng Sản, cực kỳ ghê tởm trong bản chất.
4.4 Bàn tay vấy máu của Lực Lượng Delta Force
Bản báo cáo viết tiếp:
(12) Sau khi hợp chất giết người với hơi cay/hơi độc thần kinh có đủ thời gian làm tê liệt tất cả những đàn ông, đàn bà, và trẻ con trong tòa nhà, toán
"Delta Force" bốn người – thực sự là một số sát thủ chuyên nghiệp của
CIA - đột nhập vào mục tiêu, đen từ đầu đến chân.
(13) Họ được thả trên nóc nhà từ một trong chiếc trực thăng được trang bị tối đa, bay thật thấp gần suốt cả ngày – trong khi tất cả những máy quay phim truyền hình chỉ chú ý vào những gì xảy ra ở bên ngoài tầng trệt mà thôi, nghĩa là chỉ tập trung vào những xe tăng đang bắn hơi cay/hơi độc vào bên trong. Cuộc đột kích thực sự đã xảy ra vào khoảng 10:25 sáng.
(14) Tuy nhiên, trước khi đột nhập vào mục tiêu, toán sát thủ bốn người nầy đã chích ngừa
atropine để chống hơi độc thần kinh.
(15) Thưa Bà Bộ Trưởng Reno, theo cung khai trước Ủy Ban Tư Pháp Hạ Viện vào ngày bà ra điều trần, lửa trong khu
Branch Davidian không được nhìn thấy cho đến khoảng 11:45 sáng hôm đó. Điều đó có nghĩa là toán sát thủ đã thực hiện một kế hoạch nào đó tại mục tiêu trong khoảng 1 tiếng 15 phút nhằm thi hành "công tác nhơ bẩn (dirty work)" của họ trước khi rút lui.
4.5 Bắn chết David Koresh
(16) Đương nhiên, một trong những việc đầu tiên phải làm là đột nhập vào nơi được gọi là trung tâm truyền tin (communication center), ngay cạnh nhà bếp, ở đó họ tìm thấy David Koresh, lập tức khống chế và giết Koresh với một phát súng bắn thẳng vào giữa trán, cách hai mắt khoảng một
inch. Chi tiết nầy có thể đúng sự thực theo một bài báo của tờ
Washington Post ngày 18/5/1993. Theo cột báo nầy, chuyên viên điều tra hình sự Dr. Cyril H Wecht ở Pittsburg đã hoàn tất cuộc khám nghiệm độc lập qua giải phẫu tử thi của David Koresh và Steve Schneider, một trong những cận vệ của Koresh. Wecht cho biết vết bắn vào giữa trán của Koresh và vết bắn sau gáy của Schneider không có dấu hiệu nào là "tự tử" cả. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên ở điểm nầy. Họ không tự tử mà bị cố sát. Đó là một vụ thảm sát tập thể có kế hoạch, sắt máu...
(17) Từ trung tâm truyền tin, toán sát thủ phân tán nhau ra lùng sục khắp phần còn lại của mục tiêu, và thủ tiêu tất cả 6 người khác trong toán ứng chiến nằm chờ, cũng của
CIA, và những người khác dọc đường. Lý ra họ đã thủ tiêu 6 người đó sớm hơn theo một kế hoạch mệnh danh là
"penultimate plan" nếu kế hoạch nầy được thi hành.
(18) Sau khi toán sát thủ nầy đã giết chết nhiều người như vừa kể và trong lúc hãy còn ở bên trong, nhiệm vụ còn lại của họ là cài 3 hoặc 4 ống
phosphor trắng
"Willie Peter" tại những điểm chiến lược trong tòa nhà để khai hỏa. Tất cả những ống
"Willie Peter" nầy đều có gắn ngòi nổ định giờ, cho nổ cùng một lúc – vào khoảng 11:45 sáng – đó là lúc những người bên ngoài nhìn thấy lửa cháy tại địa bàn.
Phosphor trắng là một trong những chất cháy đáng sợ nhất, với sức nóng kinh thiên có thể đốt cháy mọi thứ không để lại một vết tích gì – như thế sẽ xóa sạch tang chứng và xóa hết dấu vết của các sát thủ nhằm dễ tuyên truyền đó là một vụ tự sát tập thể hay một tai nạn bi đát, thay vì một vụ thảm sát tập thể. Những nạn nhân về sau chỉ có thể được xác định danh tánh qua hồ sơ nha khoa.
(19) Phương pháp khai hỏa nói trên được kiểm chứng qua hình ảnh trên truyền hình và qua các máy thu hình hồng ngoại của những chiếc trực thăng quân sự có mặt tại hiện trường.
(20) Một điểm khác cần lưu ý là toán sát thủ không trực tiếp giết chết tất cả các nạn nhân vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con; nhiều người trong số họ đã bị tê liệt vì hơi độc thần kinh và nằm chờ thiêu sống.
(21) Cơ bản vấn đề ở đây là tất 86 người vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con ở
Branch Davidian đều bị sát hại ngày 19/4/1993 dưới tay bốn thành viên của toán sát thủ
"wet team" của
CIA hành động dưới danh nghĩa
“Delta Force”.
4.6 Thành bại của âm mưu Mind Control
(22) Điểm then chốt ở đây còn là: những viên chức cao cấp trong chính phủ của chúng ta – không nhất thiết chính bà, thưa Bà Bộ Trưởng Reno, và cũng không nhất thiết là Tổng Thống Clinton – kể cả những viên chức trong chính quyền Reagan và Bush thuộc Bộ Tư Pháp,
FBI. ATF, Ngũ Giác Đài, và
CIA - tất cả đều đã biết trước rằng cuộc hành quân Waco có mục đích khởi đầu một cuộc thảm sát tập thể trong đó chỉ có một số ít cá nhân do
CIA định đoạt được sống sót – còn tất cả 86 người vừa đàn ông, đàn bà, và trẻ con trong địa bàn đề bị sát hại một cách lạnh lùng bởi những tên sát thủ
“Delta Force” của
CIA.
(23) Như tôi đã đề cập ở trang 30, một trong những phương thức mà
CIA xử dụng trong kỹ thuật tinh xảo
Mind Control là cài đặt những khối bộ nhớ vào tiềm thức của những tay sát thủ chuyên nghiệp thượng thặng – nhằm cho phép họ sinh tồn với những gì họ đã làm, và KHÔNG bị cắn rứt bởi những lưu ức và ác mộng về những tội ác của họ.
Xin ghi nhận: Tôi đã biết được rằng những khối bộ nhớ đó không tồn tại bền vững lắm trong trường hợp nầy và một số trong bốn thành viên của toán sát thủ vừa đề cập ở trên đã thấy ngã bệnh bởi những gì mà họ đã được lệnh phải làm, và những gì mà họ thực sự đã làm ở Waco vào ngày 19/4. Đối với những sát thủ chuyên nghiệp đanh thép và từng trãi nầy việc làm đó "quá dễ." Nhưng những người bên trong tòa nhà, vì hậu quả của hơi độc thần kinh, dứt khoát không đời nào có cơ sống sót.
** Ghi lại lần hai: Ngày 21/5/1993, Wilcher đi trình bản báo cáo nầy cho Janet Reno, Bộ Trưởng Tư Pháp của Bill Clinton. Ngày 23/6/1993, người ta phát hiện xác của Wilcher đã thối rữa nghiêm trọng trong căn phòng của ông.
Nếu quý vị không có điều kiên đọc thì cũng nên mua để cho con cháu thuộc thế hệ tỵ nạn thứ nhì, thứ ba đọc để, may ra, các cháu có CÁI NHÌN TƯƠNG ĐỐI TRUNG THỰC về nước Mỹ và có được một trực giác tương đối thực tế về số phận Việt Nam; và biết đâu con cháu của quý vị có thể tự mình thoát ra khỏi cái đáy giếng sâu mà Do Thái đã xử dụng hơn một thế kỷ để chôn sâu phần còn lại của thế giới bằng truyền thông bịp bợm, giáo dục nhồi sọ, văn hóa đồi trụy, phim ảnh khiêu dâm và phá hoại, sử sách xuyên tạc một chiều chỉ để phục vụ chủ nghĩa Do Thái.