**
TNS Robert Taft: "Về mặt đạo đức và tinh thần, Harry Truman không xứng đáng với chức vụ cao cả của ông... Ông là một người điên bị bọn bất lương vây bủa."
**
Rex Bradford: "Bên dưới cái bề mặt có vẻ trật tự của chính phủ Hoa Kỳ là cả một mạng lưới phức tạp, chỉ được cấu trúc một phần, liên kết ảnh hưởng của đám tài phiệt Do Thái Wall Street, bộ máy quan liêu, và bộ máy quân sự-kỹ nghệ. Ở đó chính là quyền lực đích thực của đế quốc Hoa Kỳ: Mạng nhện hậu trường không được ai bầu ra, không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai, và miễn nhiễm với mọi đối kháng của quần chúng."
Mạng lưới đó mang nhiều tên khác nhau, như
Shadow Government (Chính Phủ Ma), Deep State (Nhà Nước Chìm), Mystery Religion (Tôn giáo Huyền bí), Money Power (Độc Quyền Tài Phiệt), Bilderberg, Trilateral Commission, Rockefellers, Rothschilds v.v...Đích thực đó là Hệ Thống Siêu Quyền Lực Ẩn Danh
ILLUMINATI của Do Thái. Đặc biệt kể từ thời Franklin D. Roosevelt và Harry Truman (hậu Đệ Nhị Thế Chiến) lịch sử Hoa Kỳ hầu như là lịch sử âm mưu thao túng của tập đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry) trên chính phủ Mỹ từ trong bóng tối. Thực vậy, kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, quyền lực của Nhà Nước Chìm đã tự do bành trướng. Trong vụ ám sát cố Tổng Thống John F. Kennedy, chẳng hạn, vấn đề không phải là ai đã bắn ngày hôm đó mà là những thế lực bất khả xâm phạm đứng phía sau những "hung thủ." Thông qua CIA và FBI, những thế lực đó tiếp tục tác động trên chính sách của Hoa Kỳ ngày nay. Cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, từ thời John F. Kennedy đến thời Ronald Reagan, gần như chỉ có bốn đời tổng thống của giai đoạn nầy dám đối mặt với những tham vọng bá chủ thế giới của Nhà Nước Chìm nói trên và tất cả đều bị kết liễu trước nhiệm kỳ. Thế thì thực chất ra sao đối với nhũng đời tổng thống Mỹ khác từ sau Reagan đến nay?
Vài dòng tiểu sử Harry Truman
Harry S. Truman (1884 –1972) là Tổng Thống thứ 33 của Hoa Kỳ (1945–53) và cũng là thành viên Hội Tam Điểm (Freemasonry) cấp 33 – cao nhất. Từ chúc vụ phó tổng thống của TT Franklin D. Roosevelt (gốc Do Thái, thành viên Tam Điểm cấp 32) vào năm 1944, Truman đã trở thành tổng thống vào ngày 12/4/1945, khi Roosevelt qua đời sau nhiều tháng lâm bệnh. Hội Tam Điểm thực chất là một giáo phái Do Thái theo chủ nghĩa xã hội, mặc dù
Wikipedia, một trang mạng cực kỳ nguy hiểm của Do Thái, ra sức đánh bóng tổ chức nầy. (Đỉnh Sóng sẽ có một bài viết vào kỳ tới về Roosevelt trong loạt bài
"Chân tướng một số Tổng Thống Mỹ").
Đã có thời truyền thông "chính dòng" hết sức tâng bốc Truman. Họ tán dương nhân vật nầy, ca ngợi tính bộc trực của ông và biến ông thành một người khổng lồ. Có lẽ Truman là người được truyền thông "chính dòng" và những phe đảng xã hội chủ nghĩa của họ tôn sùng nhiệt liệt nhất, chỉ có thua Franklin Roosevelt, người tiền nhiệm của ông, một bậc. Ngay từ lúc được tấn phong tổng thống theo sau cái chết của Franklin D. Roosevelt Truman ngoan ngoãn thi hành những mệnh lệnh của tập đoàn Do Thái (Zionism), giết người hàng loạt thay chúng, ra lệnh CIA ám sát những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vốn là kể thù của chúng, hậu thuẫn những mục tiêu kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng. Chưa hết, Trong khi bí mật làm việc sát cánh với tên độc tài Xô Viết Joseph Stalin, Truman hiển nhiên đã giúp tạo ra Nhà Nước Israel. Đúng, Truman là "Cha đẻ của Israel (Father of Israel)." Trong nhiệm kỳ của ông, Israel lần đầu tiên được công nhận như một quốc gia độc lập ở Trung Đông, bất chấp sự phản đối bên trong nội các của chính ông và từ phía Quốc Hội. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở cuối bài.
[
<<< Top]
Phản tỉnh của một tôi đòi
Ngày nay, như chúng ta thấy, không phải tất cả truyền thông đều yêu thích và ca ngợi Harry Truman, nhất là từ năm 2003 khi ba trang nhật ký Tòa Bạch Ốc bị mất đã được tìm lại và được tiết lộ ra ngoài. Một trong những trang nhật ký đó đề ngày 21/7/1947 với nội dung như sau:
"The Jews, I find are very selfish...when they have power, physical or political, neither Hitler nor Stalin has anything on them for cruelty or mistreatment to the underdog."
(Tôi nhận thấy bọn Do Thái rất ích kỷ...khi chúng có quyền hành trong tay, vật lý hay chính trị, cả Hitler lẫn Stalin cũng không sánh nỗi với chúng về sự tàn nhẫn hay ngược đãi những kẻ dưới tay.)
Vì những dòng nhật ký nầy mà nhiều tay trong giới chóp bu Do Thái đã gắt gao thóa mạ Harry Truman như một kẻ "bài Do Thái (anti-Semite)." Điều đó chứng tỏ rằng, đối với Do Thái, cho dù người ta có tận trung như một tên nô lệ để phục mục tiêu của Israel và chủ nghĩa Do Thái đi nữa thì, chỉ cần một nhận định riêng tư trong những tài liệu cá nhân không thôi cũng đủ khiến cho người đó khứng chịu những cáo buộc bài Do Thái.
Tuy nhiên, không một ai có thể nói một cách chính xác Tổng Thống Harry Truman có nhận thức đầy đủ những tình cảm và thái độ vô tổ quốc của những người Do Thái sống ở Hoa Kỳ hay không. Sau khi về hưu vào năm 1956, Truman đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn rằng những người Do Thái ở Mỹ không trung thành với Hoa Kỳ. Ông nói, "When a Jew born and living in America talks to his Jewish companions about ‘our government,’ he means the government of Israel.”(Khi người Do Thái sinh ra và sống ở Hoa kỳ nói với những đồng bào Do Thái của họ về "chính phủ của chúng ta," họ muốn nói chính phủ của Israel.) Chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề nầy ở cuối bài.
[
<<< Top]
Hội Tam Điểm (Freemasonry)
Freemasonry là một phần của một truyền thống với những lễ nghi và biểu tượng riêng của chúng. Nếu là một thành viên của hội nầy, bạn có thể lấy được bằng cấp, gia nhập những hội kín và tổ chức xã hội nói chung, và trở thành người trong cuộc để hiểu được ngôn ngữ và những chữ tắt dành riêng cho hội. Tuy nhiên, theo thời gian truyền thống nầy đã thay đổi sắc thái liên tục, tổng hợp của sự kiện, huyền thoại và âm mưu, và chuyển sang chính trị mang màu sắc xã hội chủ nghĩa với tập đoàn Do Thái. Trong số tổng thống Mỹ, không chỉ có Franklin D. Roosevelt và Harry Truman là thành viên Freemasons, mà có đến 14 tổng thống như thế, kể cả George Washington. Tuy nhiên 14 tổng thống nầy gia nhập Hội Tam Điểm theo những quan điểm khác nhau và cấp độ khác nhau. Khuynh hướng cộng sản rõ nét nhất là vào thời Roosevelt và Truman, cấp bậc 32 và 33 (cao nhất) theo thứ tự. Có một khám phá - mà các nhà báo và sử gia Mỹ và Tây Phương bị cấm đề cập đến - liên quan đến những nguồn gốc của cuộc cách mạng Trung Cộng của Mao Trạch Đông. Thực ra, Mao là một tên nông dân ngu xuẩn và vô năng được hai tên trùm Do Thái của giáo phái
Skull & Bones huấn luyện và được những tên Do Thái xã hội chủ nghĩa từ Hoa Kỳ tiến dẫn vào một chi hội Tam Điểm Quốc Tế (Internationalist Masonic Lodge). Tiến trình nầy được thực hiện với sự cho phép ngấm ngầm của Roosevelt và sau nầy của Truman. Từ đó Mao đã trở thành một tên bù nhìn bị kiểm soát chặt chẽ bởi những tay cách mạng Do Thái – như Israel Epstein và Sidney Shapiro đã sống ở Trung Quốc và nắm quyền kiểm soát trên hai lãnh vực then chốt của chính phủ Bắc Kinh – tài chánh và truyền thông (tuyên truyền). Điều lý thú là, ngày nay những tay Do Thái Zionist cũng nắm trong tay hai công cụ then chốt đó trong chính phủ Mỹ – tài chánh và truyền thông.
[
<<< Top]
Truman triệt hạ Tướng MacArthur
Chính mối liên hệ giữa Hội Tam Điểm và Cộng Sản đã khiến Truman phản bội Hoa Kỳ bằng cách triệt hạ Đại Tướng MacArthur để cứu vãn chế độ Mao Trạch Đông bấy giờ đang giãy chết trước sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. Tướng MacArthur, người hùng của Đệ Nhị Thế Chiến, đã đẩy quân cộng sản trở lại bờ sông Áp Lục, nhưng tại điểm nầy, Hồng Quân Trung Hoa nhập cuộc với chiến thuật biển người, MacArthur xin lệnh dội bom Hoa Lục để cắt đường tiếp liệu của cộng sản nhằm bảo đảm chiến thắng cho Hoa Kỳ. Nếu cần, kế hoạch MacArthur đã tính đến việc xử dụng bom nguyên tử để răn đe Trung Cộng và buộc chúng đầu hàng. Tiếc thay, vì là một tay hậu thuận cho cộng sản theo xu hướng của Do Thái nên Truman đã không đồng ý. Truman đã bảo đảm là Hoa Kỳ không thể chiến thắng nên ra lệnh cho Tướng MacArthur giới hạn các cuộc tấn công vào Triều Tiên và không được dùng bom nguyên tử. Hậu quả của việc Truman đấu dịu với cộng sản là 50,000 binh sỹ Mỹ hy sinh và một thế chiếu bí vô cùng lúng túng và hoàn toàn không cần thiết ở Bán đảo Triều Tiên. Điều nghịch lý là: trong khi không ngần ngại thảm sát hàng trăm ngàn thường dân vô tội ở Nhật với hai quả bom nguyên tử, Truman lần nầy lại quá hèn nhát không giám hành động quyết liệt với Trung Cộng. Lý do chủ yếu, như được đề cập ở trên, là vì bọn Do Thái Mỹ đã đến Trung Hoa để giúp Mao Trạch Đông nắm chính quyền ở Bắc Kinh. Sự kiện Trung Hoa rơi vào thay Trung Cộng là một dự án của tập đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry).
Khi, trong tình trạng tuyệt vọng, Tướng MacArthur công khai và lặng lẽ bày tỏ sự bất đồng với việc đấu dịu của Truman, Truman liền sa thải ông vào ngày 11/4/1951 - với lý do "bất kính (disrespect)."
Khi trở về Mỹ, Tướng MacArthur đã được chào đón như một vị anh hùng; và dân chúng Hoa Kỳ đã quật nhào Truman trong các cuộc thăm dò dư luận: Vào tháng 2/1952, chỉ có 22% cử tri nghĩ rằng Truman đã làm tốt trong chức vụ tổng thống. Sự phản bội và xảo trá của Truman đã gây công phẫn cho những người Mỹ trung thành, đến độ Thượng Nghị Sỹ khả kính Robert Taft cực chẳng đã phải kêu gọi truất phế Truman. TNS Taft cho rằng, "Về mặt đạo đức và tinh thần, Truman không xứng đáng với chức vụ cao cả của ông... Ông là một người điên bị bọn bất lương vây bủa." Trước phản ứng dữ dội của công chúng Hoa Kỳ thời đó, Truman và nội các của ông phải cố bù đắp lại chính sách thân cộng của ông bằng một số chính sách nhằm hạn chế sự bành trướng của Nga Xô trên thế giới và ngăn chặn xu thế thân cộng ở Mỹ. Stalin liền nỗi giận, và hai tập đoàn World Jewry và Americas' Jews cũng thế. Họ xem chính sách mới của Truman như là một sự phản bội những hứa hẹn của Roosevelt và Truman tại Hội Nghị Yalta và Potsdam nhằm giúp cộng sản nhanh chóng bành trướng.
[
<<< Top]
Bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima
Mặc dù Ngũ Giá Đài và những tướng lãnh cao cấp của ông đã cho biết Nhật muốn đầu hàng, Truman vẫn ra lệnh dội hai quả bom nguyên tử, hủy diệt hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, giết chết hàng trăm ngàn thường dân vô tội. Đặc biệt bọn Do Thái tỏ ra tự hào về bom nguyên tử. Dự án chế tạo bom nguyên tử mang tên The Manhattan Project, vì những tên Do Thái quyền hành nhất đang sống ở Manhattan. Bọn Do Thái suy luận rằng, nếu chúng kiểm soát được chính phủ Mỹ thì chúng cũng sẽ kiểm soát dược vũ khí mới nầy để làm cho toàn thế giới kinh sợ, từ đó chúng sẽ chinh phục cả hành tinh.
[
<<< Top]
Truman trao vũ khí nguyên tử cho Liên Xô
Theo tiết lộ kinh ngạc của Thiếu Tá Không Quân HK George Jordan trong cuốn
Major Jordan's Diaries (1952), Franklin Roosevelt và sau đó là Harry Truman đã phạm tội phản quốc lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ: chuyển giao những bí mật quân sự quý báu nhất của Hoa Kỳ - bom nguyên tử - trước tiên cho Liên Xô và sau đó cho Israel. Thiếu Tá Jordan bấy giờ phục vụ như là một sỹ quan liên lạc của Liên Hiệp Quốc ở Newark, New Jersey, và sau đó ở Great Falls, Montana, bên cạnh Kotikov, một đại tá Liên Xô, và một phái bộ quân sự Liên Xô. Nhiệm vụ của họ là chuyển giao và vận tải bằng phi cơ Mỹ những bản vẽ và vật liệu chế bom nguyên tử - uranium và nhiều thứ khác. Jordan rất căm phẫn đã làm việc đó, nhưng vì là một quân nhân trung thành ông phải làm theo lệnh. Về sau ông đã phơi bày dự án bẩn thỉu đó trong cuốn sách của ông. Vào năm 1949, Liên Xô cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của họ. Thế giới đã ngạc nhiên nhưng Jordan thì không.
Theo Jordan, Harry Hopkins - cố vấn chính trị số một của Tòa Bạch Ốc, và được những người trong cuộc biết đến như là một điệp viên sừng sỏ của Liên Xô – đã đứng đầu dự án ghê tởm nầy nhằm trao cho Điện Kremlin tài sản quân sự đáng sợ và đầy uy lực nầy. Hopkins, kẻ thường tháp tùng Truman tại những cuộc hội nghị quan trọng về chiến tranh, được giao phó nhiệm vụ quản lý chương trình thuê mướn trong đó Liên Xô được trao hàng trăm tỉ
dollars về tiếp liệu và trang bị quân sự của Hoa Kỳ. Chỉ vài tháng sau vụ Pearl Harbor, Hopkins được Roosevelt cho phép ra lệnh cho những công ty tiếp liệu quân sự Hoa Kỳ dành ưu tiên #1 cho quân đội Liên Xô. Tệ hại hơn, Liên Xô đã nhận được xe tăng, đạn dược, máy bay, xe Jeeps, xe tải, và súng ống thậm chí trước cả quân đội Mỹ. Chiến thắng của cộng sản là ưu tiên hàng đầu đối với những tên phản bội Roosevelt, Truman và Hopkins.
[
<<< Top]
Cộng sản tràn ngập chính quyền Truman
Tương tự như Tòa Bạch Ốc của Roosevelt, chính quyền của Truman chứa đầy những điệp viên cộng sản. Cơ bản, dưới thời Roosevelt và Truman, Hoa Kỳ trở thành một chính phủ vệ tinh cho nhà nước độc tài công an trị của Stalin. Ngày nay người ta phát hiện Alger Hiss, người của Truman chuyên trách tổ chức Liên Hiệp Quốc, là một điệp viên nồng cốt của Liên Xô. Hiss nằm trên chóp bu của Bộ Ngoại Giao, và mọi bí mật mà hắn biết thì Stalin cũng sẽ biết.
Vào tháng 4/1948, Whittaker Chambers, một cựu điệp viên của Liên Xô và là một chủ biên thâm niên của tờ tuần báo Time, đã ra cung khai trước Ủ Ban Un-American Activities Committee của Hạ Viện. Truman đã bác bỏ tường trình của Whittaker vì xem đó là ngụy tạo. Truman nhấn mạnh rằng chính quyền của ông tuyệt đối không có điệp viên cộng sản hay cảm tình viên cộng sản. Nhưng sự né tránh của Truman thất bại khi Chambers trưng ra một danh sách của những nhân vật được biết là những thành viên của một mạng lưới chìm của cộng sản làm việc với chính phủ Mỹ. Một trong những điệp viên đó không ai khác là Alger Hiss vừa được đề cập ở trên.
[
<<< Top]
TNS McCarthy lột mặt nạ bọn Cộng sản
Những tiết lộ của Whittaker Chambers đã gợi hứng cho TNS Joseph McCarthy tiến hành cuộc điều tra của chính ông liên quan đến việc phá hoại Tòa Bạch Ốc của Truman. Ông tố cáo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chứa chấp hơn 200 tên cộng sản. Truman nỗi giận và quyết liệt vận động để báo chí thân Liên Xô ở Hoa Kỳ theo dõi và triệt hạ ông. (Đương nhiên những tờ báo nầy đều do bọn Do Thái làm chủ - trong giai đoạn đó phóng viên Xô Viết của tờ
New York Times là một điệp viên bí mật của cộng sản. Nỗi lo sợ và thù ghét của Truman đối với TNS McCarthy cộng thêm âm mưu của báo chí muốn triệt hạ ông đã mang lại hậu quả: Vị Thượng Nghị Sỹ nầy bị buộc phải ngưng cuộc điều tra. Điều đáng ghi nhận là trong thập niên vừa qua (2001-2010), những hồ sơ được giải mật từ những năm của McCarthy hiển nhiên chứng minh rằng McCarthy nói đúng và Truman là một kẻ nói dối. Thực vậy, chính quyền của ông đầy rẫy nhũng điệp viên cộng sản.
Mặc dù báo chí kiểm duyệt đã cố che đậy vụ tai tiếng nầy, nhiều người Mỹ vẫn ý thức được sự phản bội của Truman. Harry Dexter White, người được Truman bổ nhiệm làm giám đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), đã bị buộc tội gián điệp; Alger Hiss, người tổ chức Liên Hiệp Quốc, đã đi tù, và còn một vài tên khác nữa. Hàng ngàn tên cộng sản và cảm tình viên cộng sản trong những chức vụ cao cấp của chính phủ đã bị rút qui chế an ninh (security clearances). Thực ra, TNS McCarthy là nhân chính trị của hai đời tổng thống: Harry Truman và Dwight Eisenhower. (Đỉnh Sóng sẽ đề cập đến nhân vật nầy trong loạt bài "Chân tướng của một số tổng thống Mỹ.")
[
<<< Top]
Trả thù Nước Đức một cách man rợ
Có thể điều gian trá và ghê tởm nhất mà Truman đã làm trong gần tám năm cầm quyền của ông ở Tòa Bạch Ốc là đồng lõa với kế hoạch hậu Đệ Nhị Thế Chiến thô bạo và ác quỹ của Do Thái nhằm trừng phạt nghiêm khắc người dân Đức đồng thời biến nước Đức thành một đầm lầy nguyên thủy. Kế hoạch nầy được thiết kế ở trình độ cao nhất của Tập Đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry), và được trao cho Tổng Thống Roosevelt thông qua đám tài phiệt Do Thái ở New York - Henry Morgenthau and Bernard Baruch – và kế hoạch nầy được biết dưới tên gọi
Morgenthau Plan.
Với những thủ đoạn dã man, Kế hoạch
Morgenthau Plan bao gồm: (i) Từ chối thuốc men và chăm sóc y tế cho những thường dân Đức, (ii) Triệt hạ hay phá hủy những nhà máy và hệ thống kỹ nghệ của Đức, (iii) Cưỡng bách thất nghiệp đối với những công nhân Đức, (iv) Trục xuất hàng triệu người Đức khỏi nhà của họ và chuyển giao số nhà nầy cho người Do Thái, (v) Cướp đoạt toàn bộ tài sản của nước Đức và của nhân dân Đức, (vi) Bỏ đói hàng triệu người Đức và chuyển mọi thực phẩm có được sang các nước láng giềng như Pháp và Ba Lan, (vi) Đưa tất những cựu quân nhân của Đức vào những trại tập trung và trại lao động nô lệ ở Nga và những quốc gia khác, ở đó họ sẽ bị xử dụng làm lao động nô lệ cho đến chết, (vii) Làm hàng triệu người Đức chết cóng bằng cách chuyển tất cả dầu khí, và năng lượng khác của Đức sang các quốc gia khác. (...)
Khi Truman lên làm tổng thống vào năm 1945, ông ta đã ký tên vào và tiếp tục hệ thống tà đạo nầy nhằm nô lệ hóa hàng loạt và diệt chủng hàng loạt, một hệ thống được thiết kế bởi bọn khùng ma đầu Do Thái. Nước Đức hậu chiến đã đau khổ một cách khó ai có thể tưởng tượng nỗi.
Nhưng thiên bất dung gian; nhờ sự can thiệp của cựu Tổng Thống Herbert Hoover nước Đức mới tránh được họa diệt vong. Năm 1947, sau khi viếng thăm Đức Quốc, sững sốt và ghê tởm trước những gì ông đã chứng kiến – cái ghê tởm của Kế Hoạch
Morgenthau Plan – Hoover đã trao cho Truman một bản phúc trình viết tay đầy đủ, phản đói những gì Truman và Do Thái đang làm cho nước Đức. Hoover ước lượng khoảng 25 triệu người Đức có thể sẽ bị tiêu diệt do những tội ác vô nhân đạo của Kế Hoạch
Morgenthau Plan. Hoover đòi hỏi một phương án nhân đạo.
Vì đã nói dối và phủ nhận một kế hoạch ác quỹ như thế, nên Truman bị kẹt. Vì sợ rằng Hoover và một số đảng viên Cộng Hòa có thể phơi bày thảm trạng của nước Đức cho công chúng Hoa Kỳ, Truman đã bảo đảm với Hoover rằng "ông ta không hay biết" gì về hoàn cảnh thực sự ghê gớm đó, và ông hứa sẽ thực hiện những thay đổi tích cực. Do đó ra đời Kế Hoạch
Marshall năm 1947, tuyên bố rằng mục tiêu của Hoa Kỳ từ nay sẽ là giúp tái lập kinh tế của Đức và thiết lập một hệ thống tự do dân chủ hiến định trên vùng đất bại trận đó.
Tiếc thay, chúng ta sẽ không bao giờ biết có bao nhiêu thường dân vô tội của Đức đã bỏ mình trong những năm mà Kế Hoạch
Morgenthau Plan hoành hành. Thực vậy, những tội ác của Do Thái đã tiếp tục cho đến năm 1950-1951. Người ta ước lượng có đến khoảng chục triệu người đã chết vì bệnh tật, vì lạnh, vì đói, và vì bị hành hạ bởi quân đội Mỹ và Đồng Minh. Hàng triệu tù binh Đức đã không bao giờ được hồi hương và phóng thích khỏi những trại tập trung ở Đông Đức và Liên Xô. Họ đã lao động khổ sai dưới những điều kiện vô nhân đạo cho đến khi chết vì tuyệt vọng, đói khát, và ngược đãi.
[
<<< Top]
Am sát Tướng Patton và Bộ Trưởng QP Forrestal
Chính sách thân Do Thái một cách tận tụy và ung nhọt của Truman đã gây quan ngại lớn cho những ai trong chính quyền của ông chủ trường độc lập với Do Thái. Một số đã từ chức để phản đối. Nhưng một số ít những người Mỹ yêu nước hoặc từ chối cúi đầu khuất phục hoặc từ chối đầu hàng và từ chối trở thành những đồng lõa tự nguyện với những tội ác dã man, phản bội, và những hành động diệt chủng của Truman, Morgenthau, Baruch, Hopkins, Hiss, Eisenhower và những người khác.
Tường Douglas MacArthur bị sa thải vì bất tùng phục. Tướng George Patton đã bị ám sát sau khi ông cho các tùy viên biết rằng ông có ý định rời Đức để trở về Hoa Kỳ và sẽ lên tiếng báo động về tội diệt chủng đang được tiến hành theo Kế Hoạch
Morgenthau Plan đối với những thường dân vô tội trong nước Đức và Đông Âu hậu chiến. Một anh hùng yêu nước khác, Bộ Trưởng Quốc Phòng James Forrestal, đã bị bắt cóc và bị giam trong một quân y viện. Bản thông báo chính thức cho rằng những áp lực trong chức vụ cao của ông và thời gian làm việc nhiều giờ của ông đã khiến cho Bộ Trưởng suy sụp thần kinh đáng tiếc (regrettable nervous breakdown). Những tay tuyên truyền bịp bợm của Truman trấn an công chúng rằng Forrestal sẽ được "điều trị tâm thần tốt nhất." thay vì thế ông đã "tự vận" bằng cách bị ném từ cửa sổ của tầng lầu thứ 16 xuống sân xi măng bên dưới. Đó là cách mà bọn Do Thái giải quyết những "người có vấn đề (problem people)" như Patton và Forrestal.
[
<<< Top]
Quan hệ chủ tớ
Đương nhiên, Truman là tòng phạm trong những tội ác ghê tởm nầy, nhưng vì bản chất hèn hạ và bù nhìn Truman đã co đầu rụt cổ vào bóng tối để những kẻ khác làm chuyện nhơ bẩn. Đối với một số người chỉ trích ông, nhất là TNS Joseph McCarthy, Truman ra trước công chúng để tấn công họ, nhưng đối với bọn Do Thái đang thao túng và điều khiển ông thì Truman lại chẳng dám công khai đương đầu. Chẳng mấy ngạc nhiên khi một kẻ hèn mà ham làm vua thường rất ghét những ai ra mặt khống chế họ. Sự thù ghét của Truman âm ỉ cháy đối với những kẻ như Morgenthau, Baruch, và những cộng sự viên không Do Thái của ông. Truman đặc biệt thù ghét Morgenthau, và vào cuối năm 1945 ông đã thu hết cam đảm để bứng Morgenthau khỏi chức vụ Bộ Trưởng Tài Chánh. Mặc dù thế, vì là một tay tỉ phú của New York đang ngự trên hội đồng Do Thái tối cao, Morgenthau vẫn tiếp tục ra lệnh cho Truman và kiêu căng đòi hỏi Tổng Thống phải làm những gì mà tập đoàn Do Thái muốn phải làm.
[
<<< Top]
Truman tái tranh cử tổng thống
Vào Mùa Xuân 1948, Harry Truman, ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ, vô cùng vất vã trong cuộc chạy đua ngang ngửa với ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa, Thomas E. Dewey, Thống Đốc New York. Dewey dẫn đầu trong các cuộc thăm dò. Bọn Do Thái có vẻ lúng túng không biết chọn ai. Cả Dewey lẫn Truman đểu được xem là những tay hậu thuẫn đắc lực cho chủ nghĩa Do Thái. Tuy nhiên, Truman đã gặp phải sự oán ghét của một số tên Do Thái uy quyền do những sửa đổi của ông ta trong Kế Hoạch
Morgenthau Plan nhằm trừng phạt dã man dân tộc Đức. Bọn họ cũng tức giận đối với những hòa hoãn của Truman với những người hậu thuẫn TNS McCarthy, đối với Chủ Nghĩa Truman (Truman Doctrine), Chính Sách Kiềm Chế Cộng Sản (Containment Policy), và thái độ thù nghịch của ông đối với sự lớn mạnh hữu cơ cua chủ nghĩa cộng sản Xô Viết, một dự án mà phần lớn bọn Do Thái hậu thuẫn rất nhiệt tình. Trong bối cảnh đó, Truman là kẻ thất sủng trong khi Dewey nhận được rất nhiều hậu thuẫn – và tiền - của Do Thái. (Cá nhân Dewey là một tay Xã Hội Chủ Nghĩa và tích cực hậu ủng hộ không những Liên Hiệp Quốc mà cả chủ trương về một Trật Tự Thế Giới Mới không biên giới –a borderless New World Order có quyền tài phán và uy quyền đối với các quốc gia.
Truman tuyệt vọng. Trong khi đã bị dẫn trước quá xa trong những cuộc thăm dò, ông lại cạn tiền vận động. Truman đang nhìn thấy thất bại trước mắt. Nhưng trại chủ khôn khéo từ tiểu bang Missouri đang có một lá bài tẩy trong tay.
[
<<< Top]
Tham vọng lập quốc của Do Thái: Lá bài tẩy của Truman
Mục tiêu hàng đầu của bọn Do Thái – vượt trội mọi mục tiêu khác – là âm mưu thân yêu của chúng muốn khắc ra từ Trung Đông một quốc gia Israel mới, chỉ được cai trị bởi bọn cộng sản Do Thái. Quốc gia mới nầy sẽ là tiền đồn trong mưu đồ dài hạn của chúng nhằm chinh phục toàn cầu.
Liên Hiệp Quốc (một dự án được Roosevelt và Truman chấp thuận) đã thông qua một nghị quyết chấp thuận sự phân chia Palestine thành hai quốc gia riêng biệt, một do những người bản xứ Palestine cư ngụ và cai trị, một dành cho những cư dân mới tới – tức những người Do Thái Âu châu gốc Ashkenazi. Vào năm 1948, khi Israel trở thành một quốc gia, rất ít cư dân Palestine thuộc chủng tộc Do Thái. Khối dân nầy bao gồm một ít những người Do Thái bản xứ gốc Sephardi, những cư dân mà những người mới nhập cư – Do Thái Âu Châu – khinh bỉ như những người hạ cấp va không xứng đáng. Như thế nghị quyết của Liệp Hiệp Quốc là một cống hiến rất quảng đại đối với Do Thái. Đối với toàn bộ dân số ít ỏi của Palestine, chỉ có khoảng 6% là người Do Thái, 94% là người Palestine và những chủng tộc khác. Quả thực là quá rộng rãi cho Do Thái khi chia lãnh thổ đó thành hai quốc gia riêng biệt, một cho những người Do Thái và một cho những chủng tộc khác còn lại.
Dù được ưu đãi như thế, tập đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry) vẫn không có ý định nhượng một tấc đất Palestine nào cho những thổ dân không thuộc sắc tộc Do Thái. Do đó, giới lãnh đạo Do Thái cứ ù lì ra và thậm chí còn tiến hành một chiến dịch khủng bố tàn sát chống lại những binh sỹ Anh đang đồn trú tại Palestine và là những binh sỹ được Liên Hiệp Quốc chấp thuận để bảo vệ lãnh thổ. Bọn Do Thái khát máu đã ám sát và bắt cóc các binh sỹ và kiều dân Anh trong một mưu đồ buộc Luân Đôn phải chấp thuận một nhà nước Israel độc lập riêng cho Do Thái mà thôi.
Truman ý thức rất rõ chiến dịch khủng bố đen tối nầy bên trong Palestine của bọn đồ tể Do Thái, được lãnh đạo bởi chính nhưng người về sau trở thành thủ tướng, tổng thống, dân biểu của tân quốc gia Israel. Những tên tuổi của những tên lưu manh đã từng cắt cổ và đánh bom những khách chứa đầy thường dân bao gồm những tên như David Ben-Gurion, Menachem Begin, Benjamin Emanuel (bố của Rahm Emanuel - Tham mưu Trưởng của Obama), Yitzak Rabin, và Moshe Dayan.
Vì biết rõ quyết tâm sắt đá của các tay lãnh đạo Do Thái nầy nên Truman âm thầm tính toán lợi điểm của ông trong tư thế một tổng thống tại chức. Để chiến thắng bọn Do Thái quyền thế đang kiểm soát những thùng phiếu bằng tiền hối lộ cho những viên chức lưu manh và viên chức địa phương, Truman đồng ý rằng, nếu chúng hỗ trợ chiến dịch tranh cử của ông thì chúng sẽ hoàn thành dự án thân yêu của chúng – tức Nhà Nước Israel – ai phản đối mặc kệ.
[
<<< Top]
Truman nhận hối lộ $2 triệu Dollars của Do Thái
Ở điểm nầy, chúng ta thử đọc lại những dòng dưới đây của Gore Vidal trong
American Novelist :
“John F. Kennedy told me how, in 1948, Harry S. Truman had been pretty much abandoned by everyone when he came to run for president. Then an American Zionist brought him two million dollars in cash, in a suitcase, aboard his whistlestop campaign train. That’s why our recognition of Israel was pushed through so fast.”
(John F. Kennedy nói với tôi, vào năm 1948, hoàn cảnh của Harry Truman ra sao khi mọi người bỏ rơi lúc ông khởi sự tranh cử tổng thống. Bỗng nhiên một ngươi Mỹ gốc Do Thái mang đến cho ông ta $2 triệu dollars tiền mặt chứa trong một va-li, trên chuyến tàu lửa vận động tranh cử. Đó là lý do tại sao việc công nhận Israel được thúc đẩy nhanh chóng đến thế.)
Tên Do Thái mang tiền đến cho Truman đã làm theo lệnh của tập đoàn Do Thái Rothschilds ở Âu Châu. Truman đang cần số tiền nầy trong lúc lâm nguy. Lời tố cáo của Kennedy bị bọn Do Thái giữ kín trong nội bộ của chúng. Điều đó chứng tỏ Israel là một nhà nước bất hợp pháp ngay từ đầu.
Truman vui sướng tột độ khi nhận được số tiền to lớn nầy, nhưng ông cũng thừa nhận rằng một trách nhiệm nặng nề đang ở phía trước. Bấy giờ hầu như mọi chính quyền từ Washington đến Luân Đôn đều đồng thanh nhận định rằng những tên gây rối Do Thái dưới sự lãnh đạo của bọn khủng bố và cộng sản không nên được phép ăn cướp đất đai và tài sản của người Palestine và thiết lập một quốc gia thần quyền Do Thái (theocratic Jewish nation) ở Trung Đông. Nhưng Trumann đã hứa chính xác điều đó với Do Thái. Ông đã nhận hối lộ của chúng hai triệu và bọn Do Thái không những điều hành Mafia và bọn lưu manh ở Hoa Kỳ mà còn kiếm soát gắt gao báo chí, đồng thời mua chuộc hầu hết Quốc Hội. Truman biết tốt hơn nên giữ lời, bằng không... Hơn nữa bọn Do Thái buộc Harry Truman phải hành động để công nhận Israel như một quốc gia trước ngày bầu cử vì chúng muốn đoan chắc rằng ông sẽ không thất hứa sau khi đắc cử nhiệm kỳ hai. Thế là vào ngay 14/5/1948, bất chấp lời khuyên nghiêm khắc của Alan Austin, Đại Sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, của Bộ Trưởng Quốc Phòng, Bộ Trương Bộ Ngoại Giao, và bất kỳ ai khác hiểu biết về vấn đề, Tổng Thống Truman ra lệnh cho một tùy viên của ông soạn thảo một thông báo cho biết Hoa Kỳ "công nhận" chính phủ mới của "quốc gia" Israel đã được David Ben-Gurion, Thủ Tướng mới được lựa chọn của Do Thái, tuyên bố ngày hôm trước, vào lúc 6 giời chiều, giờ Palestine.
Stalin và Điện Kremlin lập tức theo chân Truman, và Liên Xô đã trở thành quốc gia thứ nhì công nhận Nhà Nước Israel. Kể từ năm 1948, Hoa Kỳ và Liên Xô được giả định là hai siêu cường thế giới, hành động của họ đóng vai trò then chốt cho sự thành công của Do Thái trong công trình lập quốc của chúng. Ở đây chúng ta thấy uy thế của tập đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry) lớn lao ra sao. Mặc dù Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu và nghị quyết của tổ chức nầy đã nói rõ "hai nhà nước (two states)," một của Do Thái và một của người Palestine bản xứ, nhưng chỉ có Nhà Nước Do Thái trở thành thực tại. Chỉ có Do Thái có quyền hành đối với Tòa Bạch Ốc và Điện Kremlin muốn thế.
[
<<< Top]
Nhật ký Truman: Hờn căm ẩn ức
Cuốn nhật ký nầy cho thấy Truman khổ sở và ghê tởm mức nào khi bị bọn đầu sỏ Do Thái sai khiến – sai khiến một Tổng Thống Hoa Kỳ - theo ý muốn và mệnh lệnh của chúng. Chú gà trống thiến thích người ta gọi "Mr. President," không ngần ngại hống hách với những nhân viên dưới quyền không thuộc sắc tộc Do Thái, với báo chí, và với những đối thủ Đảng Cộng Hòa, trong khi đó chú ga nầy lại âm thầm che đậy sự cam phẫn và thất vọng của mình, chỉ thở than bằng cách viết ra những dòng nhật ký nầy. Sau đó, đương nhiên, Truman lại tiếp tục như cũ và thi hành răm rắp những gì tên trùm Do Thái Morgenthau va bè lũ mong đợi ở một tên tôi đòi.
Trong trường hợp nầy, cuốn nhật ký cho thấy rằng, để đáp lại những yêu cầu của Morgenthau, Truman lập tức gởi một điện văn sang Thủ Tướng Anh Clement Atlee để yêu cầu ông nầy cho phép một chiếc tàu với 4,500 người Do Thái muốn di dân sang Palestine được cập bến ở đó, tại hải cảng ở đó, và cho phép những người Do Thái nầy được tái định cư ở đó. Thực ra, lúc bấy giờ người Anh đang kiểm soát những lãnh thổ Palestine và không muốn cho phép những người Do Thái Âu Châu gốc Ashkenazi thiết lập một đầu cầu ở Palestine. Luân Đôn biết rõ âm mưu Do Thái sẽ làm gì một khi họ có đủ dân số ở Palestine. Chúng thường được trang bị súng ống đồi dào bởi những tên lưu manh cộng sản của Stalin - những tên độc tài mới ở Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v... – và tiếp tục tàn sát chinh phục và diệt chủng ở Palestine. Mục tiêu của chúng, đương nhiên, là biến vùng đất đẫm máu này thành đế quốc tiền đồn Israel mới. Đó là lý do tại sao Morgenthau và những tên Do Thái Mỹ ra sức giật dây Truman. Mặc dù yêu cầu nói trên bị chính phủ Anh từ chối, dự án của chiếc tàu chở đầy người Do Thái vẫn còn trong nghị trình.
Vì một lý do nào đó, đoạn nhật ký gồm ba trang nầy của Truman bị biến mất khỏi những nhật ký và tài liệu chính thức được trưng bày tại Thư Viện Truman Presidential Library ở Independence, Missouri. Rõ ràng chúng bị xé ra bởi một hay nhiều người nào đó, vò lại và nhét phía sau một tủ hồ sơ. Mấy năm sau, vào cuối thập niên 1990, những trang nhật ký nầy được tìm lại và nội dung của chúng được phơi bày cho công chúng. Có giả thuyết cho rằng, vì sợ những hậu quả nào đó nên chính Truman đã tự tay xé những trang nhật ký vừa kể và nhét phía sau một tủ hồ sơ. Nhưng tại sao Truman không hủy hẳn những trang nhật ký đó mà lưu chúng lại dưới một hình thức khác?
[
<<< Top]
Ác quỹ không quá đen như người ta nghĩ
Người ta có thể nghĩ rằng công trạng vĩ đại của Truman đối với Do Thái – công nhận Israel – sẽ khiến Tập Đoàn Do Thái Quốc Tế (World Jewry) muôn đời nhớ ơn và kính trọng tên đầy tờ. Không phải thế. Khi mã hóa và ký tên vào tài liệu công nhận nhà nước Israel, Truman đã làm một rất ý nghĩa. Xin ghi nhận cẩn thận rằng, một lần nữa cũng vì căm hận, bản chất hiếu chiến thụ động của ông lại trổi lên, và Truman đã khéo léo thực hiện hai sửa đổi then chốt trong tài liệu mà bọn Do Thái đã trao cho ông.
(i) Ngay trước đoạn văn thứ nhất ông thêm vào chữ "provisional (tạm thời)," nghĩa là từ ngữ "Government" dùng cho quốc gia được tuyên bố không mang một ý nghĩa đầy đủ nào cả;
(ii) Trong đoạn thứ nhì, và là đoạn cuối cùng, ông gạch bỏ nhóm chữ
"new Jewish State" và thay vào đó ba chữ
"State of Israel"
Như thế Truman đáng thương đã lén lút qua mặt những chủ bự Do Thái kiêu căng hách dịch của ông. Đâu là sự khác biệt giữa nhóm chữ
"new Jewish State" và
"State of Israel"? Có thể Truman muốn nói rằng, đối với Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới, Israel không duy nhất là một nhà nước Do Thái thần quyền (theocratic Jewish state) chỉ do người Do Thái cai trị, bất luận tỉ số của sắc tộc Do Thái (Jews) là bao nhiêu so với tổng dân số quốc gia nói chung của Israel; cũng như hầu hết mọi quốc gia khác, chính phủ Israel cũng sẽ là thế quyền (secular) và đại diện cho tất cả những cư dân bên trong biên giới của nó, quyền lãnh đạo thuộc về tất cả các sắc dân chứ không riêng gì sắc tộc Do Thái – đó chính là đặc tính của một nền dân chủ đích thực, và đó cũng chính là vấn đề cốt lõi của danh xưng, đặt ra một thách thức vô cùng nghiêm trọng đối với giới lãnh đạo và giáo sỹ Do Thái trước thực tế sắc tộc Do Thái đã, đang và vĩnh viễn sẽ là một sắc tộc thiểu số bên trong lãnh thổ Israel.
Cho đến ngày nay, mặc dù những thay đổi của Truman đã được tối thiểu hóa và chẳng bao giờ được báo chí ở Hoa Kỳ đề cập đến, chúng vẫn còn gây công phẫn cho những giáo chủ Do Thái ở Israel. Vấn đề là: nếu bên trong biên giới quốc gia Israel số người thuộc sắc tộc Do Thái ít hơn so với các sắc tộc khác thì người Do Thái có được quyền cai trị và được xem là yếu tố điều khiển hay không? Khi chúng ta đi vào thập niên thứ nhì của thế kỷ 21, dân số Ả Rập và Palestine bên trong biên giới Israel đang gia tăng. Người Hồi Giáo không cho phép phá thai và ngừa thai như người Do Thái (nên dân số của họ sẽ tăng nhanh hơn dân Do Thái). Phần lớn những công dân Israel không thuộc sắc tộc Do Thái. Nếu đa số công dân Israel không phải là Do Thái, thì những người Do Thái thiểu số có phục tùng đa số hay không trong một quốc gia vốn tự cho là quốc gia dân chủ duy nhất ở Trung Đông? Phải chăng tình thế đó chẳng khác nào một dây buộc lỏng – yếu tố khiến những người Do Thái cuối cùng phải cho phép đa số không thuộc sắc tộc Do Thái kiểm soát chính phủ Israel trong hòa bình và dân chủ. Ngay cả bây giờ, những giáo chủ giận dữ của Do Thái đang điên dầu với ý tưởng đó. Họ muốn người Do Thái cai trị Israel để cưỡng bách trục xuất những người Palestine nào có quyền công dân ra khỏi một Nhà Nước Do Thái Kỳ Thị Chủng Tộc (Apartheid Jewish State).